Trại Kiên Giam : Chương Bốn

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive
 

 

Chương Bốn

Có giấy chứng nhận học tập ba ngày, tôi cần phải tránh xa Saigon một thời gian, nhất là tránh sự truy tìm của Công An Liên Khu 5 vào Sài Gòn bắt những người thuộc đảng phái chính trị và nhân viên chính quyền cũ. Toán Công An Liên Khu 5 đóng ở nhà số 101 đường Trần Quốc Toản (tức Nguyễn Đình Chiểu cũ). Chúng đã bắt rất nhiều người, có người chúng nhốt vào con-nết, chở về tới Đà Nẵng thì ngất xỉu.

Tôi lên vùng Đức Lập tỉnh Quảng Đức, nơi đó một người bạn tôi có ông bố là dân Pháp làm quản lý cho một đồn điền cà phê. Ở Đức Lập tôi còn mục đích dò đường để nếu có thể sẽ vượt biên giới bằng đường bộ qua Thái Lan.

Tôi cố thích nghi hoàn cảnh để làm quen với lao động chân tay và cũng để làm quen với dân chúng quanh vùng. Tình hình dân chúng rất thuận lợi, vì dọc theo quốc lộ 13, từ Đức Lập đi Ban Mê Thuột hầu hết là dân Thiên Chúa Giáo di cư. Đồng bào cho biết dọc biên giới quân đội Bắc Việt đóng dày đặc, 5 sư đoàn quân Bắc Việt được đóng trên vùng cao nguyên, từ Kontum đến Quảng Đức, chúng đóng cả hai biên giới Việt Lào và Việt Miên. Chúng lập ra nông trường sản xuất. Nhiều toán vượt biên bằng đường bộ bị bắt, từ đó ở những tỉnh cao nguyên, công an Cộng Sản thường kiểm soát khách sạn, nhà ngủ đỡ ở bến xe, dân Saigon lên là chúng bắt nếu không chứng minh được việc đi lại có lý do chính đáng. Người nào có mang những loại thực phẩm như cơm xấy, lương khô Trung Quốc, thuốc ngừa rét, bản đồ, địa bàn là đủ chứng cớ để kết tội vượt biên. Chỉ ở được non một tháng, chúng tôi phải quay về Saigon. Đồn điền cà phê bị quốc hữu hóa, tôi bị công an xã gọi làm lý lịch, chúng nghi là sĩ quan trốn học tập cải tạo, giấy học tập 3 ngày không đủ sức thuyết phục bọn chúng tin là tôi học tập đủ.

Về Sài Gòn tôi tìm đường xuống miền Tây. Người quen giới thiệu cho tôi đi thẳng về vùng đất của Việt Cộng cũ, xã Minh Long, Chương Thiện. Minh Long nằm ở địa đầu U Minh Thượng, cửa ngõ ra cánh đồng Phong Dinh Rạch Giá. Vùng này trước đây, quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng ít khi hành quân tới, dân chúng là dân bám trụ sống lam lũ tay súng tay cày. Sau 1975, họ là kẻ chiến thắng, ai nấy đều lo xây dựng lại nhà cửa, mở thêm ruộng rẫy. Ngoài lúa, họ lập rẫy trồng dứa và khoai, chỉ mấy tháng sinh hoạt đã ổn định. Rời thôn quê lúc 8 tuổi ra thành phố, nhưng cốt cách nông dân vẫn còn tiềm ẩn trong tôi, không mấy chốc tôi đã làm các công việc khơi mương đắp bờ với cây cuốc rất thành thạo, trừ cái dáng dấp thành thị chưa xóa đi được nên đồng bào ai cũng gọi tôi là ông thầy giáo.

Ruộng bỏ hoang lâu ngày nên đóng nhiều phèn và đỉa lềnh mặt nước, đặt chân xuống nước một chốc là đỉa bám lại đầy chân trông thật ghê. Nông thôn miền Tây buồn đơn điệu, ruộng và kinh rạch nối tiếp nhau. Nông dân hăng say làm việc ngày đêm, len kinh tháo nước giải phèn, phát cỏ, đắp bờ làm rẫy. Cá, rùa, rắn ngày nào cũng bắt được thật nhiều, ăn không hết. Cuối năm 1975, mùa lúa đầu tiên đầy hứa hẹn, những cánh đồng lúa vàng, nặng trĩu nhánh bông. Dân Minh Long chuẩn bị ăn Tết hòa bình đầu tiên thật lớn.

Biến cố bất ngờ là mọi sinh hoạt chậm lại, đi đâu đâu cũng nghe người ta bàn tán rồi chửi thề bất mãn – xã Minh Long phổ biến chánh sách nông nghiệp, khởi đầu là mọi gia đình phải kê khai nhân khẩu, phân biệt tuổi tác rõ ràng và kê khai diện tích canh tác.

Bà con nông dân kéo đến hỏi mục đích kê khai, mấy chục năm họ đánh giặc giữ đất, nay giặc hết, đất yên, nông dân ra sức cày cấy làm ăn, làm gì phải khai báo, Xã giải thích đó là lệnh từ trên huyện, bà con đốc thúc Chủ Tịch Xã là Sáu Lự đưa họ lên huyện, Sáu Lự cũng kêu trời, anh ta cũng là một nông dân sở tại, làm Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Xã, nhưng gia đình anh cũng canh tác nhiều mẫu ruộng. Anh cũng không hiểu chính sách của nhà nước cách mạng.

Rồi các chỉ thị tiếp theo giải thích rõ thuế nông nghiệp và chánh sách thu mua, lúa thu hoạch xong phải đóng 70% vào thuế nông nghiệp nhà nước, phần còn lại thì trừ vào phần ăn của gia đình tính theo tiêu chuẩn người lớn mỗi tháng 15kg gạo, trẻ con 10kg, số còn lại nông dân phải bán cho cán bộ thu mua.

Cán bộ nông nghiệp về xã giải thích về chính sách thuế khóa, vì đất nước còn nghèo, trước kia miền Bắc phải cắn hạt gạo làm tư để tiếp tế cho chiến trường miền Nam, nay hòa bình nhân dân miền Nam phải đóng thuế để giúp miền Bắc xây dựng – ngoài ra còn phải trả nợ cho Trung Quốc, vì theo lời Bác Hồ dạy, dân Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Trung Quốc có đề nghị tiếp viện người, nhưng bác Hồ không vay sức người vì nợ máu xương trả không được, nợ vật chất người Việt Nam trả nổi.

Cán bộ có tốn lời giải thích cách gì cũng không được nông dân thuận lòng. Những người nông dân trước kia đội gạo nuôi cách mạng “kháng chiến đánh Mỹ, đánh ngụy” – giờ đây đất nước thanh bình, họ phải làm chủ ruộng vườn, giản dị như vậy thôi. Có người bắt đầu so sánh, trước kia vào thời Mỹ-Diệm, quân cách mạng chưa mạnh, Mỹ-Diệm cũng chỉ thu thuế mỗi mẫu ruộng, mỗi năm ba giạ lúa – sao bây giờ cách mạng lại thu đến 70% . Có những cuộc cãi vã đôi co giữa đám cán bộ và nông dân.

Tôi nghĩ đến cái sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, khi người nông dân họ nghĩ kháng chiến là chống lại quân ngoại xâm, họ ủng hộ hết mình, nhưng cũng chính những người đó khi họ thấy chính quyền thi hành chính sách thuế khóa nông nghiệp quá cao là họ chống đối . Họ cho rằng chính họ là người nuôi cách mạng kháng chiến đến chiến thắng mà bây giờ họ là người bị phản bội trước tiên. Kết quả chánh sách thuế nông nghiệp năm đó thất bại, người nông dân chỉ gặt một số thóc lúa đủ chi dụng trong gia đình, còn bao nhiêu họ bỏ ngoài đồng, nhà nước muốn gặt thì cứ gặt hái lấy.

Tình trạng bỏ lúa ngoài đồng xảy ra cho khắp các tỉnh miền Tây năm đó. Mà không riêng gì lúa, các nông sản khác cũng tương tự như vậy.

Xã không có thầy dạy trẻ. Sáu Lự đề nghị tôi giúp xã dạy học, tôi bằng lòng, dù tôi không muốn làm gì cho chính quyền mới, nhưng việc dạy học cho hàng chục đứa trẻ từ 7, 8 tuổi đến 14, 15 tuổi bị mù chữ là điều không thể thoái thác.

Những đứa trẻ 14, 15 tuổi được huấn luyện sử dụng súng ống, lựu đạn mà không em nào biết đọc, biết viết.

Tôi thấy thương hại chúng nó, người ta đã nhân danh cách mạng, nhân danh giải phóng để đẩy trẻ em ra chiến trường, bị thương, cụt chân tay, bị thương khi tham dự chiến đấu cũng có, bị thương khi huấn luyện cũng có. Tuổi thơ bị cướp mất không được đền bù.

Có thể các em không ý thức được nỗi bất hạnh đó nên chúng vẫn có hạnh phúc, hạnh phúc hiện ra trong đôi mắt trong sáng vui tươi của các em, nhưng tôi là người bên ngoài, tôi có điều kiện để so sánh. Tôi vẫn thấy thương các em, dù tôi đang là kẻ chiến bại, đang trốn lánh và các em là kẻ chiến thắng.

Sáu Lự, Chủ tịch UBND xã, người tính bộc trực chất phác, hắn hăng hái trong việc tổ chức lớp học. Hắn đi du kích từ năm 13 tuổi, năm nay gần 30, thuở nhỏ ao ước được đến trường, nhưng không bao giờ thực hiện được giấc mơ bình thường đó. Đến nay hắn muốn cho con hắn và những đứa trẻ trong xã được đi học. Tôi hứa với hắn là tôi sẽ cố gắng dạy cho các em biết đọc, biết viết hoặc cho đến khi nào xã có giáo viên chính.

Với sự giúp đỡ của Sáu Lự, tôi cố hoàn thành được một căn phòng lợp lá dừa, 4mx6m thành một phòng học, bàn ghế thì làm bằng tre ghép lại, chỉ có tấm bảng đen là xã phải cử người lên tận huyện mới mua được.

Cuộc đời không trôi chảy, cuối năm 1975, huyện cử người làm Bí thư xã, Sáu Lự chỉ được làm Xã đội trưởng du kích.

Ba Trà, Bí thư xã là cán bộ tập kết, sắp về hưu, y muốn về Minh Long lập vườn rẫy chuẩn bị tuổi già. Y là cán bộ biết tổ chức, y củng cố lại xã với sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, Ban Bí Thư, Ủy ban Hành Chánh, các Ủy viên, hầu hết đều là người ở huyện cử xuống, không như thời kỳ Sáu Lự, tất cả làm việc thân mật có tính cách gia đình.

Năm Hùng là Trưởng ban Giáo Dục mời tôi lên xã, y hạch hỏi lý lịch xong, hỏi tôi giấy bổ nhiệm làm giáo viên. Tôi trả lời đây chỉ là lớp học tạm tổ chức, Sáu Lự nhờ tôi dạy tạm chờ đến khi xã có trường và giáo viên.

Năm Hùng nhìn tôi thẩm định, khi tôi trả lời xong hắn không nói gì về việc giáo dục mà bất ngờ hỏi tôi: “Anh chắc là sĩ quan ngụy, sao anh không đi học tập cải tạo?”.

Tôi đưa giấy chứng nhận học tập cải tạo ba ngày, trong đó ghi “chuyên viên Bộ Nội Vụ”, hắn hỏi tôi chuyên viên là gì, tôi đáp là người lo các công việc hành chánh giấy tờ mà không có chỉ huy người khác. Tôi trả lời qua quít cho xong, nhưng hắn tiếp tục hỏi tôi giấy hoãn dịch. Thằng này chắc là cán bộ nằm vùng nên rất rành.

Vài ngày sau tôi bị mời lên gặp Ba Trà, hắn đưa giấy để tôi viết lý lịch. Hắn giải thích để công an xác nhận rồi bổ nhiệm tôi làm giáo viên chính thức.

Viết xong lý lịch tôi suy nghĩ chắc ở không xong. Bọn chúng đã nghi ngờ, thế nào cũng bị mời đến công an. Tôi nhờ Sáu Lự đưa tôi đến bến xe, ra Rạch Giá để về Saigon.

Trên đường về, những đồng lúa chín vàng bị bỏ rục ngoài đồng, tôi vừa tiếc vừa thấy khoan khoái, không có cảm giác ghen tị như ngày mới đến, ngược lại thấy nó gần gũi thân thương lạ lùng, một hy vọng nhen nhúm trong tôi khi nhìn thấy cái căn nguyên sự sụp đỗ của địch, khi những đám lúa vàng này và những nông dân chất phác mộc mạc không đứng về phía Cộng Sản nữa.

Gần Tết Bính Thìn, Saigon bỗng dưng rét ngọt ngào, buổi sáng muốn ra đường phải mặc áo ấm. Những gia đình có chồng con đi cải tạo buồn thê thiết, vừa thấy trống vắng, nhớ nhung, tủi thương, vừa hờn giận, nhiều người trách than cha, chồng mình không di tản. Những gia đình có thân nhân di tản đã gửi thư, đã đánh điện về, họ đã định cư ổn định ở Mỹ, Úc, Gia Nã Đại và hứa hẹn ngày đoàn tụ – xa xăm cách trở đại dương mà còn hy vọng ngày gặp mặt. Trong khi những người ở lại muốn gần gũi gia đình, muốn được chết cùng gia đình, để chia xẻ vui buồn khổ nhục với thân nhân, thì một lần ra đi hầu như biền biệt. Chưa ai nhận được thư từ của người cải tạo, vợ vừa thương vừa giận chồng, con trách móc cha. Trách rồi càng thương hơn. Saigon rét ngọt ngào như thế này thì ở rừng sâu núi thẳm, nơi xó xỉnh nào đó của trại tù, không biết người đi học tập làm sao chịu nổi. Có người ra đi chỉ mang theo vài bộ quần áo mỏng manh, đi vào mùa Hè có ai nghĩ xa để phải mang theo áo lạnh, người ta nghe đồn học ở thành Ông Năm Hốc Môn, ở Long Giao, ở Katum, Trảng Lớn. Những người vợ cải tạo rủ nhau bỏ cả những buổi chợ trời kiếm cơm độ nhật để đi tìm, nhưng đến những địa điểm chỉ đứng ngoài nhìn vào, bên trong những căn cứ quân sự cũ im lặng như tờ, chỉ có nhiều vòng rào kẽm gai được kéo thêm và những người lính Việt Cộng cầm AK mặt lạnh lùng. Họ như câm, không người nào trả lời câu hỏi, chỉ lấy mũi súng xua đuổi người tới gần.

Saigon với nhiều tin đồn đãi. Tin đồn, một hình thức phát tin, nửa hư nửa thực khi có khi không, người phát tin không có trách nhiệm về mức độ chính xác . Tin đồn phát xuất từ chợ trời, Saigon có nhiều chợ trời, nhưng phong phú nhất vẫn là chợ trời Trương Minh Giảng và chợ trời Hàm Nghi.

Tin đồn có nhiều loại, có tính cách thần kỳ như mặt trời xoay với đám mây ngũ sắc chung quanh, giây bí hóa rồng ở Bà Quẹo, trăn lấy vợ ở Long An, heo nói tiếng người ở Thị Nghè, có tin tức về quân sự như quân đội VNCH đã chiếm lại Ban Mê Thuột, chiếm Hà Tiên, giật cầu Nha Trang, đổ bộ Bình Tuy, chiếm Trảng Bom, núi Bà Đen, mật khu Hắc Dịch, mật khu Lòng Tàu với những tên tuổi cũ như Thống tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tướng Bùi Thế Lân, Tướng Mã Sanh Nhơn, Tướng Lưu Yểm. (các Đại tá đều được lên Tướng.)

Tin Bộ trưởng Ngoại Giao Trần Văn Lắm và Tướng Lê Nguyên Khang về Camp David ở Tân Sơn Nhất họp với Việt Cộng để bàn chuyện quân Bắc Việt rút lui trả miền Nam lại. Người đưa tin quả quyết là chính mắt anh ta thấy tướng Lê Nguyên Khang ngồi trên xe chạy từ Tân Sơn Nhất qua đường Công Lý (nay đổi là Nam Kỳ Khởi Nghĩa), khi qua đám đông, Tướng Khang đưa chiếc cặp vẽ hình cờ Việt Nam Cộng Hòa. Nhiều người đạp xe lên Tân Sơn Nhất xem. Dĩ nhiên không thấy gì khác ngoài quang cảnh buồn hiu hắt của một phi cảng trước kia nhộn nhịp phi cơ đủ loại lên xuống, lúc này chỉ thỉnh thoảng mới có một chiếc từ ngoài Bắc đưa quan chức cao cấp vào, phi đạo đã thu bớt lại vì nhiều nơi đơn vị bộ đội trú đóng đã đào nền bê tông lên để trồng thêm khoai mì. Cái tinh thần tự túc chiến đấu của người bộ đội trong rừng Trường Sơn, mỗi khi dừng quân tại đám rừng khoai mì, nhổ củ nấu ăn rồi cắm cây xuống để trồng lại, hoặc có rãnh thì trồng thêm – kho lương thực vô tận của quân đội Bắc Việt trong chiến tranh, người Mỹ và Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng Hòa không ước tính được, trước đây người ta không hiểu sao mức dội bom khủng khiếp trên các tuyến đường xuyên Trường Sơn, quân Bắc Việt xâm nhập vẫn có đủ tiếp vận. Thực tế họ chỉ tiếp tế súng ống, đạn dược, nhiên liệu tối thiểu để chạy xe, một phần lương thực, còn nguồn cung cấp lương thực chính họ lấy tại miền Nam qua hệ thống kinh tài và những cánh đồng khoai mì bạt ngàn dọc đường chuyển quân. Nay tinh thần tự túc đó đang được áp dụng tại thành phố, các doanh trại, phi trường, đất trống quanh các công thự, nhà ở đều được xới lên trồng khoai mì. Việc đất nước quan trọng biến thành việc bếp núc vụn vặt và trở thành một sự phá hoại tài sản quốc gia. Cái lợi nhỏ nhoi mà cái hại thì quá lớn. Đó là một trong những dấu hiệu đầu tiên cho những người có quan tâm đến đất nước nhìn thấy được nguồn gốc sự thất bại trong việc quản lý kinh tế và xã hội của chính quyền Cộng Sản.

Những tin đồn cứ mãi loan đi làm cho mọi người vừa hoang mang vừa ấp ủ hy vọng. Ngủ, sáng thức dậy thì có tin mới, người đưa tin bao giờ cũng nói thêm là chính họ nghe từ đài BBC. Người ta không tin tưởng chính quyền Cộng Sản, nên tin gì ngược lại quyền lợi chính quyền được chấp nhận một cách dễ dàng. Người ta bắt đầu loan tin những trận đánh tưởng tượng từ những vùng xa, mỗi nơi đều tưởng tượng ra những mật khu, những trận địa do các Tướng lãnh chỉ huy hoặc các Đại tá bây giờ được nâng lên hàng Tướng lãnh, dù những ông Tướng, ông Đại tá ấy đã khăn gói, chen lấn giành nhau đi trình diện và đang nằm gậm nhấm nỗi buồn của kẻ mất nước tan nhà trong trại tù.

Người ta nói cho nhau những tin tức thật là vô lý đến trẻ con cũng không tin được. Hầu như mọi người ít còn sáng suốt, lười biếng suy nghĩ. Người ta nói với nhau rằng Mỹ sẽ thả một loại bom và tất cả Việt Cộng đều bị mê, còn người không Cộng Sản vẫn tỉnh, sau khi đó, cứ việc bắt những đứa ngủ mê trói lại là xong hết.

Những loại tuyên truyền như vậy, khởi đầu nó có thể có một kết quả làm cho người dân đã chán ghét chế độ không tin vào chế độ và mong muốn nó mau sụp đổ, nhưng không có hành động gì cụ thể tiếp theo thì trở thành vô ích, chỉ tổ làm cho cho đầu óc con người mơ tưởng viễn vông, lười suy nghĩ phân tích, chỉ giết chết thì giờ và ý chí bằng sự chờ đợi vô vọng.

Trước đây, Việt Cộng dùng những tuyên truyền như vậy để gây hoang mang trong dân chúng, phá hoại sự tin tưởng vốn đã mỏng manh của dân chúng vào chính thể Cộng Hòa. Việt Cộng làm có nhiều kết quả, vì đi theo sự tuyên truyền đó, có những vận động tranh đấu chính trị ở trong các thành phố và mặt trận quân sự ngoài chiến trường. Chính quyền Việt Cộng lúc mới chiếm miền Nam tổ chức rất chặt chẽ, cán bộ còn trung thành với đảng, việc tung tin như vậy trở thành vô ích vì sau đó không có hành động gì tiếp theo, ngoài ra nó còn có hại vì người dân lúc đầu thì họ dễ tin, nhưng cứ nghe mãi thật nhàm chán, sau đó nếu ai muốn gây dựng một lực lượng đối kháng, tổ chức tuyên truyền cũng trở thành trò đùa bỡn. Những vấn đề chính trị quan trọng cũng bị thành trò diễu cợt thì dân sẽ có thái độ phi chính trị rất tai hại cho tương lai tổ chức lực lượng chống Cộng Sản xây dựng lại đất nước.

Tháng 10-1975, có quyết định đổi tiền. Dân miền Nam không ngạc nhiên. Ai cũng biết một chế độ mới không ai sử dụng hệ thống tiền bạc chế độ cũ; nhưng người ta không biết sẽ đổi như thế nào. Rồi người ta cũng ước đoán và truyền nhau những ước đoán của mình:

– Có thể cách mạng sẽ bỏ không dùng tiền bạc như kiểu chính quyền Kampuchia.
– Có thể sẽ bỏ hết tiền cũ phát đồng đều mỗi gia đình một số tiền bằng nhau như kiểu Tiệp Khắc năm 1948.
– Có thể sẽ phát tiền dựa vào số nhân khẩu của gia đình.

Rất nhiều sự suy đoán và tin đồn, rồi người ta nghĩ ra nhiều cách đổi tiền miền Bắc để cất giữ và thị trường giao hoán tiền tệ hai miền ở Đà Nẵng và Huế trở nên mạnh mẽ.

Ngay từ đầu, Huế, Quảng Trị đã nhập vào Liên khu 4, áp dụng lối sống của miền Bắc XHCN, sử dụng tiền miền Bắc.

Người ta không giữ tiền nhiều, mua hàng và quý kim tồn trữ, nhưng có trở ngại là hàng hóa tồn trữ có nguy cơ bị kiểm kê và ghép tội tư sản hay đầu cơ. Giữ quý kim như vàng sợ bị tội.

Thông báo giới nghiêm, nhà nước chưa tuyên bố lý do, thì dân đã biết là đổi tiền. Nhiều người có tiền chạy đôn chạy đáo đi mua hàng hóa, vật giá lên thật nhanh, tiền xem như giấy lộn.

Nhà nước đổi tiền theo giá 500 đồng bạc VNCH ăn 1 đồng bạc ngân hàng và tối đa gia đình được đổi 200, số còn lại ký gởi. Ký gởi vào nhà nước cách mạng thì dân cũng hiểu là không bao giờ được lấy ra. Nếu có lấy thì những tiêu chuẩn khó khăn không ai làm được. Ký gửi là một từ ngữ đẹp để che giấu cho hành động cưỡng đoạt.

200 đồng bạc cho mỗi gia đình, phải ngồi sắp hàng cả tuần mới có. Những ngày đầu là đổi cho gia đình cách mạng, công nhân viên. Và cán bộ cách mạng bắt đầu vố làm ăn khấm khá đầu tiên. làm ăn công khai, giúp “bà con ruột thịt” miền Nam đổi hộ số tiền quá 100 ngàn tiền cũ ấn định đó. Đổi xong chia theo tiểu chuẩn cán bộ lấy 75%, 80%, 90% tùy từng vùng từng thời điểm.

Nhiều gia đình tự tử vì giữ nhiều tiền bạc quá, nay xem như mất hết. Có người ôm cả bao bạc nhạy từ lầu 3, 4 xuống, xác dập nát mềm nhũn và bạc giấy còn mới tinh bay trong gió như bươm bướm.

Chợ trời thêm đông và thêm nhiều chợ mới xuất hiện. Chợ Hàng Xanh, Bà Chiểu, chợ Bà Hạt, chợ Bảy Hiền. Người dân Saigon, sau lần đổi tiền như đã kiệt, tài sản, kể cả áo quần cũng đem ra chợ bán. Người miền Bắc vào mua hàng đã đông đúc, bây giờ càng đông đúc hơn, tư nhân có, tập thể có, các hợp tác xã vào mua đủ mọi máy móc. Sau khi tháo gỡ các xưởng máy chở về Bắc, lập cơ quan thu mua, chính Phó thủ tướng Đổ Mười điều động việc thu mua cho nhà nước, người ta mua từ xe Honda, tủ lạnh, quạt máy, TV, máy lạnh, xe hơi. Trong khi dân không có tiền, nhà nước tung tiền giấy không bảo chứng ra mua hàng, có khác gì đem giấy đổi hàng. Tiền giấy ngân hàng đúng là chỉ giá trị hơn giấy lộn, vì mới đổi 1 đồng ăn 500 đồng, giá tô phở là 2 đồng bạc mới, dân gọi theo tiền cũ là 1000, chỉ một tháng sau giá tô phở đã lên đến 10 đồng.

Dân nghèo, bạc hạ giá, hàng hóa lên là đương nhiên. Nạn ngăn sông cấm chợ, nông phẩm các tỉnh miền Tây cấm chuyên chở lên Sài Gòn – người ta nghĩ là nhà nước cách mạng làm áp lực để dân phải hồi hương và đi kinh tế mới. Nhưng cũng do nạn sứ quân mỗi tỉnh ban hành chánh sách riêng của tỉnh họ, vì kinh tế mỗi tỉnh tự túc .

Tỉnh Biên Hòa, Long Khánh chặt cây ăn trái trồng lúa, Lâm Đồng, Đà Lạt phá vườn rau trồng lúa. Đọc báo Nhân Dân, tin gia tăng sản xuất tỉnh nào cũng đạt năng xuất cao, vượt chỉ tiêu.

Tuyến xe miền Tây toàn dân buôn chui, mỗi người đi mua bán từng 4 hay 5 kg thịt heo, 10 kg gạo, vài ba ký tôm khô. Trạm kiểm soát Ba Càng, Nha Mân ở hai tỉnh Vĩnh Long và Sa Đéc tiêu diệt ngành buôn bán lẻ tẻ theo xe đò.

Dân Saigon thiếu gạo trầm trọng, nhà nước cấp thứ gì ăn thứ đó, gạo hẩm, bo bo, bột mì, mì sợi cũng không đủ. Người dân miền Tây làm bún, bánh tráng, bánh tét, bánh ú đem lên Saigon bán – vì những loại thực phẩm nấu chín nhà nước chưa đưa vào qui hoạch. Bữa cơm của dân Sài Gòn đủ loại, cơm độn mì sợi, độn khoai, độn đậu, nhiều khi nồi đậu xanh độn một ít cơm. Mua được cái gì nấu ăn cái đó. Không chọn lựa.

Bác Hồ dạy cho cán bộ đảng viên Cộng Sản phải lo cho dân từ hũ mắm tới lọ cà. Ai cũng nghĩ đó là Bác nói cái tinh thần hy sinh của cán bộ cho hạnh phúc của dân chúng. Nhưng bây giờ người miền Nam biết Bác Hồ nói thật – nói với nghĩa đen của nhóm từ ngữ, đúng là lo hũ mắm, lọ cà, vì thịt cá không có, nếu có thì chỉ dành cho cán bộ đảng viên, còn dân thì chỉ ăn mắm, ăn cà, mà cũng không được tự lo lấy; vì mắm cà hay bất cứ lương thực, thực phẩm nào cũng đưa vào qui hoạch nhà nước. Những cửa hàng lương thực, thực phẩm mọc lên ở các cấp với những bảng hiệu sơn màu đỏ như máu, màu đỏ của cờ cách mạng, màu đỏ biểu tượng cho tinh thần đấu tranh, màu đỏ qui ước chỉ khối Cộng Sản. Người dân thực tế họ biết rằng càng nhiều cửa hàng thì càng ít lương thực, sản phẩm nào được đưa vào qui hoạch, người dân càng khó mua.

Thỉnh thoảng lúc 2 hay 3 giờ sáng, tổ trưởng dùng loa hay đập cửa các hộ gia đình để đi nhận cá phân phối. Khi mọi người tụ tập đầy đủ, cán bộ phòng lương thực quận bắt đầu bài học chính trị: “Dưới thời Mỹ-Ngụy nhân dân ta bị bóc lột tận xương tủy, chúng vơ vét hết của cải của nhân dân ta, thậm chí đến con cá là thực phẩm tầm thường nhất, nhân dân ta cũng không được ăn. Ngày nay, nhờ ánh sáng cách mạng, nhờ Bác Hồ muôn vàn kính yêu và đảng Cộng Sản bách chiến bách thắng với chủ thuyết Marxism vô địch đã đánh đuổi được tên đế quốc đầu sỏ, tên sen đầm quốc tế là đế quốc Mỹ với bè lũ ngụy quyền tay sai, đem lại hòa bình và ấm no cho toàn dân. Bác Hồ dạy, đảng phải chăm lo từ hũ mắm, lọ cà cho nhân dân, hôm nay phòng lương thực quận đem cá về phân phối tận tay cho đồng bào… Nhưng trước khi đi vào thực tế chia chác, tôi cần thống nhất với bà con mình, là cá được đưa qua nhiều khâu nên có sự hao hụt và phí tổn chuyên chở, cán bộ nhà nước như chúng tôi là đầy tớ của nhân dân, tức là đầy tớ của bà con đây, nên cán bộ không lấy tiền công dù phải thức đêm hôm với bà con, nhưng phí tổn chuyên chở, hao hụt phải tính vào giá thành, nếu bà con thắc mắc ngày mai đề xuất lên quận …”.

Lần đầu tiên nhận phân phối cá, những con cá lóc bằng cổ tay đứa trẻ sơ sinh, đồng bào chỉ biết nhìn nhau nhún vai lắc đầu. Nhún vai, lắc đầu là động tác có tính thời đại của đồng bào miền Nam, một hình thức phản kháng mà không sợ bị bắt.

Sống trong nước chậm phát triển, sản phẩm tiêu dùng không đầy đủ, dân Việt Nam quá quen với chế độ phân phối, tùy mỗi giai đoạn chính phủ đặt các loại sản phẩm vào chế độ phân phối để bảo đảm cho mỗi người dân được mua một số lượng sản phẩm tối thiểu nào đó, để bảo đảm giá thị trường, tránh đầu cơ hay không lọt vào tay địch, nhưng các mục tiêu trên thường không đạt được. Chế độ phân phối hàng hóa trở thành đặc quyền đặc lợi của nhân viên chánh quyền. Người ta không lạ gì chế độ phân phối gạo ở miền Trung đã sinh ra nhiều vụ tai tiếng lớn, không kể những lạm dụng cấp cò con. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa có vụ án chở gạo bán ra Bắc của Bộ trưởng Kinh Tế Trần Văn Mẹo và Ưng Bảo Toàn, có dính tới Ngô Đình Cẩn và Nguyễn Văn Bửu . Thời Đệ Nhị Cộng Hòa có vụ một Tư Lệnh Quân Đoàn 2 chở gạo bán cho Việt Cộng ở Pleiku, vụ Tài Mậu ở Quảng Ngãi của Đại tá Lợi, chở gạo bán ở Trà Bồng. Vụ độc quyền gạo ở các tỉnh Phan Rang, Phan Thiết của bà Huyết cô của Tổng Thống Thiệu.

Liên hệ đến nông nghiệp, có vụ độc quyền phân bón của Công ty Phân Bón Cửu Long do anh em cột chèo của Tổng thống Thiệu chủ trương và chính ông ta bảo trợ. Có độc quyền, có phân phối là có lạm dụng, dân chúng không hưởng được sự bảo đảm của chánh phủ, hầu hết sản phẩm mua trên thị trường chợ đen. Về sau, người ta dám can đảm gạt qua những chỉ trích để chấp nhận kinh tế thị trường, sản phẩm lưu động uyển chuyển và giá cả được điều chỉnh nhanh chóng qua thị trường cung cầu. Rõ ràng thị trường kinh tế tự do cạnh tranh cũng có những khuyết điểm nhưng nhìn chung vẫn tốt hơn chế độ phân phối.

Trong xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế chỉ huy, mọi sản phẩm đều đi vào quy hoạch nhà nước, và những ước mơ của Hồ Chí Minh, đảng lo từ hũ mắm lọ cà, nên chính quyền can thiệp thô bạo vào mọi khía cạnh của cuộc sống. Người ta mơ tưởng đảng hay nhà nước tập trung tất cả sản phẩm để phân phối thật công bình cho nhân dân, nhưng đó chỉ là ước mơ. Trước hết đảng và nhà nước cũng chỉ là một tổ chức của con người, những con người đầy lòng tham và được tuyệt đối quyền hạn. Sự phân phối theo nhu cầu hay bình quân đều không có cơ sở để định mức. Chế độ phân phối càng bị thiếu hụt giả tạo làm trầm trọng thêm sự khan hiếm, cộng thêm sự chậm chạp của hệ thống thư lại gồm nhiều hệ cấp trình báo. Tóm lại, càng nắm quyền phân phối sản phẩm dân càng thiếu, càng bất công. Hơn ai hết, người dân Việt Nam sống giữa những biến động xã hội, nhiều lần thay đổi chế độ, người ta càng thấy càng thay đổi người dân càng khổ hơn trước và càng nói cách mạng thì viên chức chính quyền càng tham nhũng, lộng hành hơn trước.

Tin tức từ thân nhân cán bộ Cộng Sản cho biết từ 1975 qua đến đầu 1976 Bộ Công An đã đưa thêm vào miền Nam 200 ngàn công an để lo về an ninh nội chính. Miền Nam dày đặc công an. Mỗi tổ dân phố có một Công an Khu vực, một Công an Kinh tế và một Công an Thuế vụ. Chưa kể hệ thống Công an Nhân dân gồm:

– Tổ trưởng Dân phố.
– Tổ trưởng Thanh niên.
– Tổ trưởng Thiếu nhi
– Tổ trưởng Phụ nữ.

Mỗi tuần các Tổ trưởng này phải báo cáo tình hình trong tổ theo nhận xét của họ lên Công an Khu vực và các Ủy viên ngành dọc ở trên phường. Chính sách Công an Nhân dân nhân, nhân hộ khẩu và phân phối lương thực, thực phẩm là chìa khóa cai trị nắm vững từng người dân một. Thêm vào hệ thống báo cáo trên, các chủ tiệm cà phê, tiệm ăn lớn nhỏ đều phải viết báo cáo hàng ngày về số khách đến ăn uống trong đó phải ghi nhận hai loại khách thường xuyên và khách bất thường, cũng như khách nào thường xuyên quan hệ với nhau.

Những tiệm cà phê, giải khát đông khách, vì các hàng quán này khách thường hay ngồi lâu nói chuyện; thì công an quận sẽ thay hẳn chủ quán, họ buộc chủ quán phải dời đi nơi khác. Quận cử nhân viên như công an đến bán như quán cà phê Hà Nội ở đường Nguyễn Thiện Thuật, quán Da Vàng ở Nguyễn Huỳnh Đức, người bán là nhân viên công an, người giữ xe đạp, thu ngân, dọn bàn, bưng nước đều là nhân viên công an phụ trách.

Công an mặc thường phục đi kiểm soát thường xuyên, có hai hay ba người tụ tập. Bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, công an cũng có quyền tách mỗi cá nhân riêng biệt rồi đưa giấy bắt họ khai, họ phải khai đã nói với nhau những gì, nếu lời khai không trùng lấp nhau đều bị bắt vì lý do phản cách mạng. Sự quen biết, bạn bè đối với dân Saigon bây giờ trở thành cái nạn, nhiều người ở tù vì những quan hệ sơ sài với những người bị theo dõi, bị bắt. Cách duy nhất để người dân Saigon tránh phần nào sự bắt bớ là ít ra đường hoặc trước khi nói chuyện với bạn bè phải đồng ý với nhau trước là mình nói chuyện gì đến khi bị kiểm tra khai cho thống nhất.

Nhà tù nhiều hơn trường học, mỗi quận đều có những nhà tù mới, nhà nước sử dụng các khách sạn, cao ốc để nhốt tù – và cả những biệt thự kín đáo mà dân Saigon không biết – chỉ những người bị giam trong tù mới được biết hầu hết các nhà tù ở trong Saigon, vì sự chuyển đổi trại tù gặp những người tù ở nhiều nơi.

Đại khái Bộ Nội Vụ có trại giam ở Tổng Nha Cảnh Sát, Quân khu 7 có trại Tô Hiến Thành, nhà giam của Phòng Nhì ở Tổng Tham Mưu cũ ở đường Ngô Quyền, trại tù binh cũ ở Ngã Năm Bình Hòa. Sở Công An có trại 168 Trần Hưng Đạo, trại Chí Hòa, trại Phan Đăng Lưu, trại Đại Lợi. Quận Tân Bình có trại Đại Lợi; Phú Nhuận có building đường Huỳnh Quang Tiên; Bình Thạnh có bót Hàng Keo; quận 6 có Trại Tế Bần, quận Nhà Bè có trại Nhà Bè, quận I có trại Mạc Đĩnh Chi; quận 2 có trại ở đường Trần Hưng Đạo Ty Cảnh Sát quận 2 cũ, quận 3 có trại giam Ty Cảnh Sát cũ đường Lê Văn Duyệt. Ngoài ra những nhà giam ở các Villa kín cổng cao tường không xác định được vị trí.

Tháng 11-1975, vụ Phục Quốc Vinh Sơn bị khám phá. Công an tấn công vào nhà thơ Vinh Sơn ở đường Trần Quốc Toản, bị kháng cự, 1 công an bị chết. Trong nhà thờ có tổ chức làm bạc giả và hệ thống phát thanh. Khoảng từ tháng 9 đến tháng 10 năm 1975 dân chúng Saigon có thể bắt được một số các buổi phát thanh từ 10g tối. Nhón Phục Quốc Vinh Sơn dùng hình ảnh Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ để tuyên truyền và triệu tập quần chúng. Ông Nguyễn Cao Kỳ được họ nâng lên làm Thống tướng hay Thống chế. Lời kêu gọi dân chúng nổi dây được đọc bằng giọng Bắc nhừ nhựa giống giọng Tướng Kỳ. Saigon lúc bấy giờ nhiều tin tức đồn đãi về hoạt động của Tướng Kỳ và Tướng Lân ở núi Bà Đen.

Sau vụ Vinh Sơn, các khu Công giáo và nhà thờ bị lục soát bắt bớ, Giáo dân và Giáo sĩ bị bắt rất nhiều không tính được.

Tết Bính Thìn qua trong buồn tẻ, thiếu thốn và đầy tình thương nhớ cùng luyến tiếc. Người dân Saigon không thể ngờ chỉ hơn 6 tháng mà đời sống kinh tế của họ xuống thê thảm như vậy. Hầu như đồ đạt trong nhà đều đã bán hết, có nhiều gia đình phải gỡ cả tôle và gạch hoa trong nhà đi bán. Nhà cửa ở Saigon không còn giá trị là một tài sản nữa mà đúng hơn là nơi dung thân ở thế nào cũng được. Tủ, bàn ghế, giường nệm đều bán sạch. Một căn nhà lợp tôle trong ngõ hẻm đắt giá hơn căn nhà xây ngoài đường – vì nhà xây không gỡ bán được và có thể bị chiếm bất cứ lúc nào. Sau khi chiếm nhà các gia đình đi di tản, vượt biên, cán bộ Việt Cộng dòm ngó tới những căn nhà còn chủ ở lại. Những căn nhà rộng lớn có ddi.a điểm tốt thì chiếm làm công sở như Phường, Ấp, trạm Y tế. Quận đội, Phường nội. Gia đình bị chiếm nếu biết điều tuân hành thì được chỉ định một căn nhà xấu hơn để ở, nếu không tuân theo thì chủ nhà, nhất là người đàn ông, sẽ bị chụp mũ là phản động và bắt đi học tập. Việt Cộng biết rất rõ người đàn ông là cột trụ của gia đình ở miền Nam. Cô lập người đàn ông thì gia đình đó sụp đổ.

Trong chế độ Cộng Sản, nhất là trong giai đoạn họ còn trấn áp để trị an, bất cứ một cán bộ nào ở cấp thấp nhất như Phường, Tổ đều có thể đề nghị đưa một người dân đi cải tạo. Không cần phải chứng minh tội trạng của đương sự, vì họ chỉ cần ghi tội danh phả động một cách tổng quát và khi về đến Công an thì đã có tội, “bị bắt là có tội” vì Đảng không bao giờ sai lầm, đó là lý luận của những viên chức gọi là Chấp pháp của ngành công an.

Trong khi bắt dễ như vậy mà thả ra thì rất khó – lệnh tha thường phải do Bộ Nội Vụ hay Thành Ủy, một trong những lý do tại sao nhà tù Cộng Sản càng lúc càng đông người, ngay cả trường hợp cơ quan bắt người muốn tha cũng khó – bên diện tù Hình sự, gặp nhiều em chỉ vì ham chơi phá phách, cha mẹ quen như chế độ cũ đến Phường gửi con nhờ cải tạo cho con sợ, đến khi đứa bé bị đưa vào trại rồi, chính quyền sở tại cũng không xin tha được, lúc đó quyền tha đã thuộc cơ quan Quản lý trại giam – nhiều em đã chết trong tù vì trường hợp này.

Ngày mùng 2 Tết tiếng nổ long trời từ căn cứ Sóng Thần, tiếng nổ làm dân Saigon tỉnh dậy chạy ra đường mừng rỡ vì họ nghĩ có biến, có người la lên “quân ta về” trong khi bộ đội, công an, cán bộ cách mạng thì chạy trốn – nhưng tiếng nổ đơn độc không biết do sự phá hoại của một thành phần đối kháng hay một tai nạn do bất cẩn. Nhưng qua hiện tượng đó cho thấy chỉ mấy tháng mà người dân Saigon đã chán cách mạng và họ lại muốn có thay đổi.

Qua sự kiện này người dân Saigon cũng nhìn thấy tinh thần của cán binh Việt Cộng, nghe tiếng nổ cán bộ Việt Cộng chạy trốn như chuột, không ai còn ý nghĩ về một quân đội Cộng Sản lì lợm, kiên cường nữa, và dân Saigon càng thấy những từ ngữ tuyên truyền của Cộng Sản là láo khóet, có người thấy bộ đội, cán bộ nghe tiếng nổ chạy trốn tức tối hét lên: “ĐM, tụi nó hèn thế mà mình thua, đau quá”.

Vài tháng sau Tết Bính Thìn, xẩy ra vụ nổ ở hồ Con rùa đường Duy Tân, vụ nổ đơn độc một lần nữa làm dân Saigon mừng hụt – nhiều người bị bắt sau đó, đa số liên hệ đến vụ này là người Thái ở Tùng Nghĩa và người Tày ở Phú Lâm.

Họ dự trù một vụ đánh úp Sàigòn, hiệu lệnh là tiếng nổ ở hồ Con Rùa, nhưng khi di chuyển nhân sự và vũ khí họ bị bắt trước.

Chuẩn bị co cuộc bầu cử Quốc Hội cả nước tháng 4-1976, Việt cộng cho bắt tất cả nhà văn, nhà báo. Việt Cộng xem nhà văn nhà báo cũng là nhân viên của chính quyền, không phải là tư nhân như trong thể chế tự do.

Văn nghệ sĩ và nhà báo bị bắt không sót một người vì trong hàng ngũ này Việt cộng đã có nhiều cán bộ nằm vùng như Sơn Nam, Vũ Hạnh (nhà văn), Cung Văn, Huỳnh Bá Thành (nhà báo), Nguyễn Diệu Liên Tâm, nhân viên Bộ Dân Vận Chiêu Hồi. Nguyễn Diệu Liên Tâm là con một viên chức Bưu điện Đà Nẵng, y thị du học Úc Đại Lợi – vào đảng Cộng Sản, nằm vùng tại Bộ Dân Vận Chiêu Hồi. Sau năm 1975 là một cán bộ nồng cốt của ngành công an, vì công an Việt cộng ít có người có đủ tiêu chuẩn như y, trẻ tuổi, du học ngoại quốc, sinh trưởng ở miền Nam – làm việc trong chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa, Nguyễn Diệu Liên Tâm và Huỳnh Bá Thành được kể như hai cán bộ xuất sắc nhất của Việt cộng trong ngành công an, không phải chỉ ở Sài Gòn mà cả nước. Hai tên này phá vỡ rất nhiều tổ chức đối kháng và bắt giam nhiều người nhất, có công nhất trong việc triệt hạ nhà văn nhà báo miền Nam. Giới văn nghệ sĩ trình diễn được yên thân hơn, nhưng hầu hết phải bỏ nghề vì cấm trình diễn, nghệ sĩ nào được trình diễn trở lại đều phải qua sự bão lãnh và giới thiệu của nữ kịch sĩ Kim Cương là cán bộ Cộng Sản nằm vùng trong giới nghệ sĩ miền Nam.

Sau khi đã cô lập sĩ quan, công chức và những người liên quan đến chế độ cũ cùng những đảng phái, tôn giáo, Cộng sản đã biết được tinh thần chống đối hay bất hợp tác của dân chúng miền Nam nên chúng chủ trương dùng bạo lực và nhà tù để trấn áp.

Cán bộ công an mặc thường phục làm công tác trinh sát hình sự và trinh sát chính trị được rải ra khắp các thành phố, tỉnh lỵ, thị trấn và nhất là Saigon đầu não của mọi sinh hoạt xã hội của miền Nam.

Nhân viên trinh sát chính trị được tuyển dụng trong thành phần sinh viên học sinh tranh đấu, con cái của các cán bộ Cộng Sản nằm vùng hay tập kết để dễ trà trộn hay xâm nhập. Đối với cán bộ từ Bắc vào, chúng huấn luyện cách sống miền Nam, kiểu cách ăn nói, sinh hoạt giống như thanh niên miền Nam, biết nhảy đầm, nghe nhạc, xem ciné, ngồi quán cà phê. Sau này có dịp ở chung với thành phần đối kháng sau ngày 30-4-75, phần lớn tổ chức của họ bị phá vỡ trong trứng nước là do họ thiếu kinh nghiệm, kết nạp cán bộ trinh sát chính trị của Việt cộng vào tổ chức, hay bị theo dõi, khám phá từ những cuộc hẹn hò ở các quán cà phê và quán giải khát.

Ngoài ra Mai Chí Thọ, Giám Đốc Sở Công An Thành Phố còn cho lập thêm những tổ chức đối kháng ma, để làm mồi câu những người có tư tưởng chống đối lộ diện. Thọ còn cho cán bộ treo cờ quốc gia. Tôi được một người dẫn đi xem một tiệm may ở đường Võ Tánh nối dài, giả làm như lén lút may cờ VNCH. Loan đồn tin thất thiệt, dựng nên hoạt động giả trá, sau đó cán bộ trinh sát chính trị được tung ra để tuyên truyền lôi kéo người vào tổ chức Phục Quốc ma. Rồi thì bắt tất cả, người đồng ý tham dự bị bắt vì tội tham gia tổ chức phản động, người không đồng ý tham gia cũng bị bắt vì tội không báo cáo. Tội danh lúc bị bắt khác nhau nhưng khi hỏi cung và kết án thì căn cứ thành phần xã hội, trình độ học vấn và tuổi tác của nạn nhân mà quyết định cải tạo lâu hay chóng.

Thời gian đầu vượt biên được kể là tội chính trị và bị xử phạt nặng, có nhiều trường hợp kêu án chung thân những người cầm đầu tổ chức. Từ cuối năm 1975, dân Saigonn và miền Nam đã vượt biển ra đi với nhịp độ đáng kể. Lúc đó tổ chức vượt biên rất khó vì chưa được sự “cộng tác” của công an biên phòng trong dịch vụ bán bãi, và những người ngư dân hay nông dân còn thử chờ đợi. Người dân bình thường nếu một chính quyền và xã hội tạm sống được họ không cần phải đối kháng hay chạy trốn.

Nhiều chuyến vượt biên thành công được kể truyền miệng từ người này đến người khác với sự khâm phục. Người nào cũng ao ước được ra đi.

Do đó công an Việt Cộng làm thêm nhiều vụ khám phá các tổ chức vượt biên. Mai Chí Thọ cho nhân viên đứng ra tổ chức móc nối rồi giả như đưa đi vượt biên, đến Phú Lân hay cầu Xa Lộ thì chận bắt. Bắt người vượt biên Sở Công An có nhiều lợi cụ thể là tịch thu vàng, quý kim người vượt biên mang theo, tịch thu nhà cửa, và giam giữ những người mà chúng cho là có tinh thần chống đối. Tóm lại vì lý luận tư tưởng là nền tảng điều hướng cho hành động, nên Cộng Sản không những bắt bớ giam cầm người có hành động phạm pháp, mà còn bắt bớ giam cầm những người chúng đánh giá có tư tưởng chống đối nên không ngần ngại tổ chức chống đối giả, tổ chức vượt biên giả để nhằm câu cho dân chúng phạm tội để chúng bắt.

Sống trong tình trạng căng thẳng bất cứ lúc nào cũng có thể bị bắt đó là tình trạng tinh thần của người dân miền Nam trong chế độ Cộng sản.