Kỷ Niệm thời Cò bay… trong sân trường PCT

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive
 

 Kỷ Niệm một thời Cò bay… trong sân trường PCT

thayHuuDuan
Lời tự giới thiệu: Tôi vốn là “Cò hương Vỹ Dạ” vì quê tôi là vùng Nội lách Sông Hương. Tôi vào nghề giáo ở trường Nguyễn Tri Phương Huế. 4 năm nhưng cứ bỏ lớp bay ra sân trong các duyên nghiệp “Hiệu đoàn - Sinh hoạt học đường - Giáo dục mới - Trại Hè học sinh” nên cũng từng bay đi nhiều nơi: Cổ Lủy, Túy Vân, Bạch Mã, Vũng Tàu, Châu Đốc, Hà Tiên.

Tháng 1/1961, Tôi bay vào “Miền gió cát sông Hàn” nhận việc “chăm nom học trò” trong vai Cò TGT trường Phan Châu Trinh với giấc mơ “bụi phấn sân trường”. Mơ một lớp học vui tươi trật tự và từ nay “không vắng mặt một ai”- một sân trường cỏ xanh, bóng mát, có pho tượng mô hình truyền thống, có tiện nghi cho tuổi trẻ vui chơi và rèn luyện. Ước mơ tuy đơn giản mà khó thành vì những sóng nước gập ghềnh của thời thế.

Đoạn đời “bụi phấn sân trường” trải dài qua 5 thời Hiệu trưởng và 1 năm Cò xử lý việc trường “không được ủy nhiệm”. Kết thúc “bỏ trường mà đi” vào quân đội VNCH.

Rồi đoạn đời 9 năm “bay tới bay lui” từ lớp ngày qua Ty, Sở về trường đêm PCT và kết cuộc “mất dạy” đi “tù lao cải” 6 năm khi quốc nạn can qua 1975.

15 năm hai đoạn đường biết bao sự việc, biến cố xảy ra giữa sân trường.

Giờ đây ghi lại những kỷ niệm nhớ nhớ quên quên về thân hữu, bạn bè, về học trò trong “nghĩa tình trường xưa lớp cũ”; gặp những ai đã mất thì như một lời tưởng niệm; gặp những người còn mạnh thì xin cứ đọc để có một phút vui buồn.

Kỷ niệm về “giữ yên những lớp học” giữa buổi, có nam giáo sư vắng mặt vì quân vụ, nữ giáo sư vắng mặt vì nghỉ hộ sản, mà thời khoá biểu chưa điều chỉnh kịp vì thiếu giáo sư.

“Về! Về! Thầy cho về!” âm thanh vang lên phá tan không khí trang nghiêm của trường học- kèm theo vài em xách cặp đứng gần cửa sổ chực nhảy qua, đã từng làm tôi phẫn nộ; đập roi mây xuống bàn, lên cửa, đe dọa sẽ quất nặng những trò làm trái ý:

- Về sao được! Giờ sau còn học 2 tiếng nữa!” Đáp như vậy vì tôi nghĩ, cho ra chơi đợi giờ sau học lại, nhà trường chưa có “nhà chơi, sân nghỉ”, học sinh lang thang ra đường rong chơi 1 giờ, giữa thời buổi xe cộ xô bồ, lỡ xảy ra tai nạn trách nhiệm về ai? Vì vậy phải giữ lại trong lớp để “họ học, họ làm” để họ khỏi “nhàn cư vi phá phách”. Và phải trông coi kiểm soát và phê điểm thưởng phạt - nên được họ tặng cho biệt danh “giáo sư hổ loan”.

- Trường hợp lớp cho về thì cũng giữ trật tự, không làm ồn trở ngại lớp khác đang học. Vì vậy phải lên lớp dặn dò, canh chừng họ sắp hàng ra lớp, xuống lầu, lấy xe đúng chỗ - thự tự vì “họ” hay vất bay sang khung khác, khiến khó kiểm soát an toàn. Ra cổng phải dắt xe chứ không được phóng đại ra đường dễ bị tai nạn…

Bấy nhiêu công việc cứ lặp đi lặp lại, nên cứ thấy Cò “tả xung hữu đột” đến nổi họ đổi tên “Cò Đờ Gôn” - “Cò ken nơ đi” xuất hiện trên nhiều trận tuyến.

- Giải quyết cái việc của giới “thứ 3” trong thời buổi biến động chính trị - tôn giáo - chiến cuộc ảnh hưởng học đường thật khó khăn và tế nhị làm tôi nhớ đến những tấm lòng thiện tâm, thiện chí đóng góp và chia xẻ của bạn bè đồng nghiệp trong mọi vai trò…

Thầy Giám thị Đinh Tránh, người Xuân Thái, Duy Xuyên Quảng Nam, lớn tuổi, kinh nghiệm, khiêm cần, xử việc đầu đuôi tình nghĩa và đã sống cùng cạnh với tôi suốt chặng đường 15 năm và được phước duyên lúc tuổi già ngồi trong ngôi nhà, gần trường PCT nhìn ra đường thấy hình bóng “lũ phá phách” xưa.

Thầy Giám thị Nguyễn Kế, người Quảng Bình, lo hồ sơ học vụ, thí vụ kỹ lưỡng tuyệt vời làm việc không mệt mỏi, ít nói, nhưng luôn có nụ cười hóm hỉnh trên môi, dù ở nhiệm vụ chuyên môn nhưng vẫn giúp “chăm nom học trò” khi cần. Phước báu thầy đã để lại cho đời, cho trường PCT những hậu duệ tuyệt vời Nguyễn Thống, Nguyễn Chương. 

Thầy Bửu Diêu, người Huế một trưởng văn phòng tín cẩn. Thầy làm gạch nối cho tôi “người chăm học trò” và phụ huynh học sinh, nhất là hội PHHS để giúp tôi thi hành kỷ luật học đường có hiệu quả hơn.

Bà Nguyễn Khoa Dánh, người Huế, 1 chuyên viên về thời khoá biểu, suốt ngày suốt buổi cặm cụi trên sa bàn với những mảnh bìa ghi ký hiệu môn học, tên giáo chức (bà thường gọi là tài nguyên) và kim găm. Đó là đầu mối của sự ổn định trường lớp và nhất là lớp học vui buồn tiến thoái là tùy trên tài nguyên - mà tài nguyên trị giá không đồng đều về chất lượng, về thời gian, về hoàn cảnh và nhất là về chất lượng tâm tính, chuyên môn…, vì vậy công việc đòi hỏi bà phải cẩn trọng và không thiên vị; nên “người làm dâu trăm mối” này thật khó mà dung hợp. Trong trường hợp 5,7 tài nguyên đi quân vụ, 3 hay 5 tài nguyên nghỉ hộ sản, mỗi niên khoá xảy ra vài lần như vậy… nên bà phải điều chỉnh đến quên ăn mất ngủ, phờ phạc cả người để giúp cho “tướng ngoài mặt trận” như chúng tôi ổn định tình thình với chiến thuật, chiến lược mới…

Thầy Cung Thế Mỹ, nguyên giáo chức dạy môn Pháp văn và Toán, về dạy ở trường đã lâu, ngày ấy được điều ra phụ với tôi đối phó với “giặc thứ 3” nhiều lần. Và từ năm 1969 về sau rất nổi tiếng thay thế cô Đặng Thị Liệu làm “tướng cầm roi” bên trường Nữ trung học Hồng Đức.

thaycungthemy

Thầy Cung Thế Mỹ

Thầy Nguyễn Đỗ Thuận, phụ trách kế toán của trường. Thầy đánh máy rất nhanh, thầy đã thiện nguyện giúp tôi thực hiện những bảng thông báo, kêu gọi học sinh tham gia công tác xã hội, Lễ hội, Thể thao, Du ngoạn, nhất là các bảng kế hoạch tổ chức lễ hội, đại hội thể thao… trên giấy sáo để in thành nhiều bản phổ biến rộng rãi… Chúng tôi đã làm việc với nhau thâu đêm để kịp ra thông báo kêu gọi “mỗi học sinh 1 vắt cơm cho đồng bào bị nạn bão lụt 11/1969” hoặc bảng kế hoạch lễ hội truyền thống 1966 kỷ niệm 40 năm ngày giỗ cụ Phan (1926-1966) với chi tiết: rước kiệu, diễn hành, triễn lãm lịch sử truyền thống, sáng kiến, sáng chế của thầy trò, dụng cụ trợ thính, trợ thị học đường… trình diễn Thi ca nhạc kịch…

Bác Nguyện Văn Thôi, người Tống thơ văn và nhân viên bảo trì và hào soạn tuyệt vời của trường PCT. Thử hồi tưởng lại hình ảnh với chiếc xe đạp cũ mỗi ngày đi đến hàng trăm địa chỉ: Tòa Thị Chính, các Ty Sở liên hệ, các tư thục trung học, hội PHHS, nhất là đến nhà của mấy chục giáo chức để thông báo, giao thời khoá biểu giảng dạy… việc gì  cũng phải kịp thời mới thấy cái nhọc nhằn gian lao của bác.

Về mặt bảo trì, bác không quản ngại ngày đêm đến mở cửa, mở máy, dọn dẹp phòng ốc cho giáo chức hội họp, trực gác… Về hào soạn, bác đã lo những bữa cơm chung, bữa tiệc cuối năm, cuối hè cho giáo chức với những món hào vị khó quên do bác nấu. Những lúc trường đứng ra tổ chức “Trại Hè học sinh xuất sắc miền Nam” thì bác là “cái đinh” lo việc ăn uống cho toàn trại và đó là yếu tố đã gắn chặt tôi với trường PCT, với Trại Hè học sinh miền Nam…

Tôi nhớ bác Thôi cùng tôi có những quyết định cấp thời: đổi những bữa ăn do học sinh đi chợ Lăng Cô, tự nấu trong trại Hè 1971 thành bữa ăn mang theo đi du ngoạn khi trại phải thay đổi chương trình vì bão tố thay vì cắm trại bãi biển Lăng Cô thì đi du ngoại Lăng tẩm Huế. Vì vậy tôi và bác Thôi phải mang gạo, dầu ăn, rau quả ra chợ Đông Ba thương lượng với một số cửa hàng cơm, hàng thịt để đổi thành cơm, thành chè. Chúng tôi phải thương lượng với 3 hàng thịt, 5 hàng cơm, 5 gánh chè để trong vòng 3 tiếng đồng hồ có đủ 150 gói bọc đồ chua, rau, 150 bọc chè đậu váng, đậu xanh kịp lúc 12 giờ trưa đem lên lăng Minh Mạng cho trại Hè đang dừng bước.

Tôi nhớ bác Thôi với lòng từ tâm, không quản ngại nguy hiểm đã cùng tôi dùng loa giải thích năn nỉ xin với đám đông bạo động đang vây quanh bệnh viện Đà Nẵng để vào liệm và chôn 15 xác chết vô thừa nhận vì thân nhân không dám ra mặt ở sân bệnh viện trong trong biến cố 24 tháng 8 năm 1964 đang ở trong tình trạng ươn sình dễ ảnh hưởng đến vệ sinh chung. Chúng tôi đã dùng rượu để rửa và sắp từng bộ phận của từng xác, lăn tay để chứng lý lịch cho từng xác rồi gói họ trong những tấm vải thô và bỏ vào những hòm ván mỏng của kho nhà xác bệnh viện mà chúng tôi tự ý lấy đại, chứ không biết xin phép ai? (mà cũng không ai dám cho phép). Chúng tôi phải làm việc trong nhiều giờ giữa tử khí và chỉ biết thầm thỉ cầu nguyện theo tinh thần tín ngưỡng nhân gian… Bác Thôi đã ra đi trước 75 và phước thay có mọi thành phần thân hữu tiễn chân: giáo chức, học sinh, đạo hữu và hơn 50 vị sư, ni hộ niệm…

Nói đến các bác Lao công. Tôi nhớ đến bác Nguyễn Văn Nam, thấm môi chút rượu thì làm việc bất kể giờ giấc; quét dọn, lau bảng đen, sắp bàn ghế ngay ngắn cho buổi học sớm hôm sau - vì lớp Anh văn hội Việt Mỹ, lớp đêm PCT học tới 10 giờ đêm…

Bác Tô Thau, bác Phan Văn Luân có nhà ở trong trường, Bác Tô Thau có trách nhiệm giữ chìa khoá cổng ra vào, nhà kho, phòng Thí ngiệm… nên bác phải theo luật trường không cho kẻ gian lợi dụng. Bởi vậy bác thường khiêng những chiếc xe vất bừa bãi về phòng Giám thị cho tôi định đoạt. Lấy phấn, giấy trong kho, dụng cụ trong phòng Thí nghiệm cũng phải tìm bác Thôi mở cửa. Vì trường, vì vì trật tự chung, đôi khi bác có chút cường điệu làm cho một số học sinh, giáo chức phiền lòng. Riêng tôi thấy bác ấy làm việc rất nghiêm túc và tình nghĩa. Tôi còn nhớ bác ấy là người đầu tiên đến thăm tôi khi tôi vừa đi tù “lao cải” về.

- Với phụ huynh học sinh, tôi làm cái việc “chăm nom học trò” con em của họ một thời gian dài. Đã tiếp xúc rất nhiều giới phụ huynh, trực tiếp thảo luận, giải quyết nhiều trường hợp đặc biệt. Tôi đã học được 1 điều: phụ huynh chân thành hợp tác với nhà trường, thảo luận rốt ráo, thì có thể giải quyết mọi lệch lạc cả hai phiá, tìm ra con đường sáng cho con em, tạo môi trường thuận lợi cho con em học hành, sinh hoạt tốt đẹp thì nhất định tạo được những hậu duệ hữu ích thành đạt.

Trong ý nghĩ ấy, tôi nhớ đến những bậc phụ huynh lão thành của trường PCT:

- Cố Mục sư Đoàn Văn Khánh, Cụ Đông Hải Phạm Hữu Khánh, Có Bác Sĩ Thái Can, Cố Bác Sĩ Đinh Văn Tùng, Dược sĩ Tôn Thất Dung. Các vị cựu Thị trưởng: Đại tá Lê Chí Cường, Đại tá Nguyễn Ngọc Khôi. Các vị Giám đốc Nha - Sở, Trưởng Ty, Trưởng phòng: Nguyễn Rô, Đoàn Bân, Võ Văn Triêm, Thái Trữ, Trịnh Nghiêm, Nguyễn Thân, Nguyễn Dậu… Các vị cố thân hào nhân sĩ: Trần Gia Thoại, Nguyễn Thái… Các vị cố, cựu chủ nhân cơ sở Văn hoá, xã hội, thương mãi: Vương Duy Quỳnh, Trần Phúc Lũy, Bửu Chúc, Vĩnh Cơ, Tân Việt, Sông Việt, Sông Đà, Diệp Hải Dung… Họ đến với hội PHHS trong nhiều vai trò xã hội khác nhau, nhưng khi làm việc Hội, họ là những phụ huynh tận tụy hợp tác lo việc học hành sinh hoạt của con em trong môi trường yên lành. Họ đã lưu lại cho xã hội những hậu duệ hữu ích.

- Với quý vị giáo chức, kỷ niệm hai đoạn đường 15 năm, quá nhiều để nhớ để quên…

Trước hết, xin cám ơn thầy Nguyễn Đăng Ngọc, vị Hiệu trưởng ở giai đoạn đầu của đoạn đường “bụi phấn sân trường”, đã giúp nhiều từ miếng ăn, thức uống, chỗ ở cho Cò tôi trước khi gia đình vào Đà Nẵng. Thầy đã hướng dẫn Cò tôi thực hiện niềm mơ ước… xin chia sẻ niềm vui với thầy khi trường có lớp 12 và ngậm ngùi khi thầy đổi đi nơi khác vào năm 1962.

thaynguyendangngoc

thầy Nguyễn Đăng Ngọc,

Thứ nhì, xin cám ơn thầy Thái Doãn Ngà, vị Hiệu trưởng ít nói mà tình nghĩa, về trường PCT cùng với Cò tôi từ trường Bộ Binh Thủ Đức, cho Cò làm phụ tá và dẫn đường cho Cò bay tới bay lui suốt 9 năm trong nhiều “khung trời” lớp ngày, lớp đêm, ty, sở.

thaythaidoannga

thầy Thái Doãn Ngà

Thứ ba, xin cám ơn quý vị giáo chức giúp đỡ Cò tôi “chăm nom học trò” trong nhiều tình huống khác nhau. Quan niệm tuổi trẻ ở giai đoạn “Học sinh Trung học” là trau dồi kiến thức nhân bản, tình tự dân tộc, khoa học khai phóng cho vững vàng, đừng để chính trị, tôn giáo, phe phái lung lạc, lũng đoạn… đã giúp chúng ta giữ yên trường học trong môi trường lành mạnh, tách rời khỏi ảnh hưởng đấu tranh phe phái.

Trong tâm tình ấy, tôi thầm ca ngợi thiện tâm thiện chí của các giáo chức:

* Các cố giáo chức lão thành đức cao, lòng độ lượng đã bảo bọc bao dung cho trường PCT chúng ta như thầy Bùi Tấn, thầy Trần Tấn, cô Trần Ngọc Liễn…

* Các thầy Nguyễn Lương Hiền, Nguyễn Bá Việt, Đỗ Viết Lê, Nguyễn Ngọc Thanh, Trần Đại Tăng, Ngô Hào… cẩn trọng tế nhị trong SHHĐ; nhất là trong việc chọn và hướng dẫn các ban đại diện học sinh trong lớp.

* Các thầy Bùi Đình Nhuận, Lê Long Viên, Đinh Văn Hiền, Lê Khắc Khoan, Dương Đức Phương… đã tận tình, công tâm khi hướng dẫn học sinh sinh hoạt thể dục thể thao.

* Thầy Trần Đình Quân với vẻ bề ngoài lạnh lùng nhưng lý tưởng và cảm tình sâu lắng. Thầy Tôn Thất Lan với nụ cười hài hước nhưng kỹ thuật điều khiển ca hát rất cao. Thầy Hoàng Bích Sơn cần cù, giáo khoa và kỹ thuật hòa âm, sáng tác đáng bậc đàn anh. Cô Nguyễn Thị Kim Thành điều khiển ca múa với những vũ điệu khó quên đã hướng dẫn sinh hoạt văn nghệ PCT vang “tiếng hát học trò xứ Quảng”. Thầy Đoàn Văn Toàn hiệu là Đỗ Toàn có chút phóng khoáng nhưng rất nghiêm túc trong điêu khắc, tạc tượng, người đã phụ trách mô hình kỹ thuật để dựng pho tượng cụ Phan Châu Trinh năm 1966.

* Thầy Đặng Như Đức vui vẻ hiền hòa dễ gây cảm tình. Cô Đặng Thị Liệu tinh thần công tác xã hội đã trở thành đức tính tự nhiên. Thầy Lê Quang Mai, tình người chan chứa không thể thiếu mặt trong mọi công tác cứu trợ thiên tai, chiến họa, một thời ở xứ gió cát sông Hàn. Tôi nhớ thầy Mai qua những lúc xông pha can ngăn người ta đốt phá nhà cửa, sát hại lẫn nhau và đem xác nạn nhân về bệnh viện trong biến cố 24/8/1964 và những lúc bất chấp mưa gió bão bùng nguy hiểm cùng tôi đi xe về Quân trấn ĐN, ở Sư đoàn 2 đến giải cứu gần 2 ngàn dân tị nạn ở bãi biển Sơn Chà về trường Tiểu học Hùng Vương xứ đạo Vinh Sơn Nam Thọ trong vụ bão Iria 15/9/1964…

Trường tôi PCT đã có một thời được những người giáo chức như trên hướng dẫn học trò làm công tác xã hội.

…Và còn quá nhiều bạn bè tình nghĩa đến và đi qua sân trường PCT theo thời gian.

* Có người chỉ một vài niên khoá nhưng “bụi phấn lớp học, gió cát sân trường” lưu dấu trong lòng… như các thầy cô Phạm Thị Bội Hoàn, Nguyễn Thị Hoàng Oanh, Bùi Thị Bích Hà, Tôn Nữ Từ Diệm, Nguyễn Trung Hối, Trần Trừu, Bửu Thiếc, Hoàng Thế Diệm, Trần Xuân Giảng, Tạ Ngọc Minh, Tôn Thất Tạ…

* Có bạn từ sân trường vào quân trường, ra mặt trận rồi trở về sân trường:

- Lo việc trường, việc bạn như việc nhà: Trương Văn Hậu nhặt từng vỏ đạn dồn đống đúc tượng…, chân ướt chân ráo đến miền đất lạ đã lo gửi quà về giúp bạn… Quan tâm bạn bè, chia xẻ lúc buồn lúc vui như Trần Xuân Mai.

* Có bạn lúc già yếu, ốm đau, hoạn nạn vẫn nhìn qua cửa sổ nhớ bạn bè xưa, học trò cũ: Trần Công Kiểm, Lý Châu, Dương Quang Tiến…

* Có những bạn, nguyên học trò cũ, lớp xưa PCT trở lại trường trong vai nhà giáo tận tụy việc trường bất cứ nơi đâu: Trần Gia Phụng, Nhật Ngân.

* Có bạn sau 75 ở lại quê hương làm cầu nối góp tin bạn cũ, trường xưa. Trần Hoan Trinh bằng lời thơ huyền thoại, Dương Ngọc Tạo bằng giọng nói trịnh trọng từ số 7 D NTL, BT SG để bạn bè ở xa còn gặp được: Vĩnh Vinh, Dương Công Hầu, Hoàng Vũ, Lê Thị Như Hoa, Hoàng Thị Mộng Liên, Ngô Anh Tuấn, Lê Quang Ngộ, Ngô Hào, Nguyễn Bá Việt, Nguyễn Tòng, Trần Gia Định, Tăng Kim Lân, Tôn Thất Lan, Nguyễn Thị Anh… hiện ở Sài Gòn. Nguyễn Văn Kính và Cô Quỳnh, Lê Long Viên, Tôn Nữ Nộn Ngân, Trần Công Bê, Trần Trọng Huấn, Hoàng Bích Sơn, Trần Văn Hiến, Nguyễn Văn Đáo, Tôn Nữ Mỹ Hà, Huỳnh Ân, Hoàng Đình Hoạt, Dương Văn Khoa, Trần Thị Mua, Trần Văn Thông, Nguyễn Văn Thiên, Tôn Thất Chơn Tu, Phan Thanh Gia Lai, Huỳnh Khải… hiện còn ở Đà Nẵng.

RendezvousQuanHue

     Hình chụp tại Quán Huế Rendez Vous CA ngày 1.9.07

Với học trò, 15 năm ấy hàng hàng lớp lớp qua sân trường. Nội lớp ra nhẩm tính con số vạn cầm chắc, làm sao nhớ!? Hẹn dịp nào còn mạnh còn nhớ, sẽ nói chuyện: phạt đứng, phạt quỳ, phạt viết, xách tai, quất roi…

Chuyện những ai gây rối sân trường, chuyện những trưởng lớp, trưởng trường gương mẫu, óc lãnh đạo sớm phát… Chuyện trưởng ban, trưởng nhóm tài ba, chuyện những chuyến công tác xã hội đầy kỷ niệm hãi hùng có, kỳ thú có… Chuyện trại Hè, lễ hội rước kiệu, diễn hành, triển lãm, Văn nghệ phát thưởng… mà bắt đầu từ hồi Cò tôi mới bay đến sân trường 1961 đã chứng kiến đội trống nhạc Nữ sinh “đem chuông đánh xứ người” tận đại hội Thanh Niên Thị Nghè miệt Sài Gòn với Bạch Nga, Thị Quyên, Thị Nữ và mấy tay Nữ họ Thái trường PCT… Rồi học trò PCT ban đồi Mỹ Khê xây trại tỵ nạn cho đồng bào 1965 và toán Áo trắng học trò LV, CT, TT, CN ủy lạo, khích lệ đoàn “Ong biển” tiến hành công tác cho mau xong… Và lứa học trò ra trường năm 1974 với những học trò tình nghĩa trong “Dấu chân xưa NLC” và hậu duệ Lê Văn Chính (Bắc Cali), Nguyễn Đức Chương (Nam Cali) đứng ra kêu gọi bạn bè cựu học sinh 2 trường PCT- Nữ Trung học khắp nơi … tổ chức “tưởng thầy nhớ bạn 30 năm xa trường, xa xứ” thành công tốt đẹp vào ngày 29 tháng 5 năm 2005.

Chuyện còn dài, Cò tôi xin hẹn dịp sau kể tiếp.

Trần Hữu Duận

(Trích từ Kỷ Yếu PCT 2007)