Đổi thay và truyền thống là một đề tài đã đã được đề cập từ xa xưa. Tuy nhiên vấn đề luôn luôn có tính cách mới mẻ. Bất kỳ tại đâu, ở vào thời đại nào, chuyện đổi mới và bảo tồn truyền thống, giữ gìn quốc hồn, quốc túy chống lại ảnh hưởng ngọai lai, cũng được đặt ra và gây nhiều tranh cải.
Ở Pháp chẳng hạn, trước kia, trong văn đàn có cuộc tranh luận sôi nổi giữa hai phái Tân và Cựu ( La querelle des Anciens et des Modernes ) . Sau đệ nhất thế chiến phong trào Dada, một chủ trương văn hóa chống lại văn hóa ( counterculture) ,cho rằng tất cả các truyền thống đều không có giá trị. Ngày nay thì một số người Pháp than phiền giới trẻ đã Mỹ hoá qúa nhiều.
Trong lịch sử Á đông, từ thế kỷ 18 trở đi, tại Trung quốc, Nhật Bản và ở nước ta vấn đề bế quan tỏa cảng hay mở cửa du nhập văn minh nước ngoài là vấn đề sống còn. Vì bị trị, thế hệ cha ông chúng ta đầu thế kỷ 20 rất nhạy cảm về thể diện dân tộc nên có những đổi thay rất tầm thường lại gây ra một cuộc đấu tranh gay go giữa nhiều phe, ví như việc cắt tóc ngắn. Trước lúc chịu ảnh hưởng của phương Tây, cha ông chúng ta để tóc dài và búi lên như một số phụ nữ ngày nay. Cắt tóc ngắn hay giữ cái búi tó một thời đã tạo nên một “ cuộc chiến “ sôi động. Phe đổi mới xem búi tó là dấu hiệu của mê muội, lạc hậu, cắt bỏ đi mới mong tiến bộ :
Phen này cắt tóc đi tu
Tụng kinh độc lập ở chùa duy tân
Phe đối lập, không phải không yêu nước, không phải không mong đất nước văn minh, nhưng coi búi tóc là quốc túy quốc hồn, cần giữ lại. Tiêu biểu nhóm sau này có cụ Nguyễn văn Tố, một nhà Nho tân tiến, một học giả uyên thâm, hội viên Hội Viễn Đông Bác Cổ Pháp. Cụ cương quyết giữ lại cái búi tóc cho đến mãn cuộc đời.
Nghĩ cho kỷ đổi thay cũng đúng vì không thể không đổi thay. Nhưng gìn giữ truyền thống ,gìn giữ bản sắc riêng của mình không phải không có lý do. Sự vật
đổi dời nhưng chẳng lẽ không gìn giữ lại một chút gì, cứ buông xuôi mặc cho đổi thay để một ngày kia soi gương nắm mặt mình, chẳng nhận ra mình nữa. Thật tiếu lâm như anh chàng nông dân kia một hôm ra đình làng ngủ trưa. Gió hiu hiu mát, anh ngủ một giấc say sưa đến nỗi có người nghịch ngợm hớt đi một mảng tóc, cắt bớt một chòm râu mà chẳng biết. Đến khi tỉnh dậy trở về nhà, con chó trong nhà thấy lạ cất tiếng sủa. Ngở ngàng sờ lên đầu lên mặt, thấy râu tóc không còn như xưa, bèn nhất quyết tự cho mình không phải là mình nữa, là người khác lạ rồi bỏ nhà đi luôn.
Không qúa ngớ ngẩn như người nông phu kia nhưng thay đổi mà không biết mình đã đổi thay, không biết mình còn lại những gì của mình, không nhận ra bản lai diện mục của mình nữa thì tình trạng cũng có phần nào giống anh nông phu kia.
Thưa quí vị,
“ Truyền thống và Đổi thay “ mênh mông và phức tạp, là vấn đề của nhiều quốc gia,nhiều cộng đồng, không riêng gì của một ai. Nhưng vấn đề đã trở nên quan yếu, cấp bách, tạo ra một cuộc khủng hoảng gây nhiều thao thức cho chúng ta. Một sớm một chiều chúng ta đã rơi vào trong một nền văn hóa xa lạ, có lúc trái với truyền thống dân tộc. Một sớm một chiều chúng ta là một phần cơ thể đang sống bị cắt bỏ ra ngoài cơ thể. Chúng ta cảm thấy lạc lõng, lo lắng cho chúng ta, cho con em chúng ta một ngày nào đó còn là người Việt nữa không. Trước kia khi chúng ta còn là một khối, có chính phủ độc lập, có nhiều phương tiện trong tay, tự do hoạch định đường lối văn hoá giáo dục, việc bảo tồn truyền thống, bản sắc dân tộc đã khó khăn. Nay chỉ là một thiểu số nhỏ, thiếu phương tiện, thiếu thế lực thì việc cân bằng giưã cái mới, khác lạ của người khác với bản sắc riêng của mình lại càng muôn vàn khó khăn hơn. Nhưng khó mà chẳng lẽ không cố gắng ? Đáp lại câu hỏi này tôi xin trích ý kiến của Ông Nguyễn văn Trường, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hoà, trong một bức thư viết cho bạn hữu : “...với đông đảo con em chúng ta sinh trưởng ở ngọai quốc, chúng ta có trách nhiệm hướng dẫn tốt các em trong việc trở về nguồn. Chúng ta là những người Việt Nam duy
nhất và sau cùng gần gủi con em mình, và là nơi văn hoá Việt Nam giao lưu với nhiều nền văn hóa khác. Trách nhiệm truyền lại cái di sản ngàn đời của tiền nhân trong bối cảnh lịch sử này nặng hơn bất cứ lúc nào từ trước đến nay.”
Trước một vấn đề lớn lao, trọng đại, chúng tôi không dám đưa ra những ý kiến gọi là để luận giải hay giải quyết. Một vài nhận định lẻ tẻ dưới đây giới hạn vào một khía cạnh cụ thể, dựa vào kinh nghiệm bản thân hay vào việc mạn đàm với một số bạn bè lúc rảnh rỗi. Chúng tôi nêu ra với mong ước được học hỏi thêm.
Thái độ gìn giữ truyền thống và tiếp nhận đổi thay khác biệt nhau tuỳ theo nhiều yếu tố : tuổi tác,trình độ học vấn, khả năng hoạt động,hoàn cảnh gia đình...Không có một yếu tố quyết định đơn thuần , thường là những yếu tố hổ trợ hay bài trừ lẫn nhau, Nói chung có một số người từ chối cái mới, cương quyết không chấp nhận đổi thay. Họ đã sống cô đơn ( sequestered ) hoặc quay trở lại Việt Nam, thiêú tiện nghi nhưng quen thuộc hơn. Một số chấp nhận đổi thay như một tiến trình của cuộc sống, không có gì đáng chú ý. Ở đâu cũng làm ăn sinh sống, thắc mắc làm gì. Một số khác ý thức về việc đổi thay và hoạt động để giữ lại bản sắc dân tộc. Một số khác nữa, phần đông là lớp trẻ, hoặc qua đây từ lúc còn rất ít tuổi, hoặc sinh trưởng tại đây, đã coi xã hội này là xã hội đương nhiên của minh. Không biết hay chưa từng thấy Việt Nam, một số không thừa nhận mình là người Việt Nam.
Dù có thái độ nào, dù chấp nhận mình là người Việt hay không, điều chắc chắn vẫn có cái gì đó rất Việt Nam trong mỗi một chúng ta. Có sống đến tuổi ông Bành tổ trên đất nước này chúng ta không bao giờ là Mỹ hoàn toàn. Nước sông Hồng, sông Cửu và gió núi Trường Sơn đã taọ nên không những da,thịt và dòng máu chảy trong huyết qủan chúng ta mà cả những nếp suy nghĩ,những cách cảm xúc, đối đáp, một tâm thức đặc biệt của người Việt. Muôn đời chúng ta là Việt Nam vì gốc bản chúng ta là Việt Nam, đã mang những truyền thống Việt. Chúng ta cần gìn giữ và phát huy những truyền thống đó để xác định bản sắc và tìm chỗ đứng cho mình.
Tuy nhiên không nên nhầm lẫn việc gìn giữ truyền thống với thái độ hoài cổ hay đúng hơn là nệ cổ, tồn cổ. Tồn cổ hay nệ cổ là một thái độ độc đoán, cứng nhắc, chỉ thấy qúa khứ là hay là đẹp. Những người nệ cổ nhớ tới một dĩ vãng vàng son xa xưa, thường là quyền thế và sang giàu và thường than thở : “ tuyết trắng năm Xưa nay ở đâu ? “ ( Où sont les neiges d’antan ? ). Tinh thần nệ cổ là tinh thần cố chấp “ xưa bày nay làm “ , hay tinh thần :
Ta về ta tắm ao ta
Dù trong, dù đục , ao nhà đã quen.
Nhưng không nghĩ ao đục, bị ô nhiễm có thể làm cho loét mắt, sinh ra kiết lỵ, thương hàn và trăm thứ bịnh khác.
Truyền thống không phải là một cây hoa nở sẵn, cứ bứng vào chậu đem trưng ở trong nhà là được. Truyền thống là “ một tiến trình biến hóa và tái thỏa hiệp sinh động “ ( a living process of modification and renegociation ) như nhà văn Thomas Schapsott đã viết. Cho nên cứ áp dụng nguyên vẹn những truyền thống tốt đẹp của chúng ta ví như tình thương gia đình, sự vâng lời và lòng hiếu thảo của con cái đối với mẹ cha như xưa kia lúc còn ở Việt Nam, chúng ta sẽ gặp phải nhiều sự thất bại bất ngờ có khi chua xót. Đã có biết bao gương đỗ vở trong cộng đồng chúng ta vì cha mẹ qúa cố chấp. Tôi biết một cặp vợ chồng rất dễ thương, tận tụy với con cái nên đứa con nào cũng học giỏi. Nhưng một hôm trong một cuộc thảo luận về tương lai, có đứa bỗng bảo : “ Ba mẹ đừng có đào tạo bọn con theo hình ảnh của Ba mẹ “. Anh bạn tôi sửng sốt, nhưng suy nghĩ lại, chẳng phải đứa con không yêu thương cha mẹ. Trong xã hội Mỹ này thanh niên muốn tự lập hơn và đây cũng là điều hay, hay hơn sự áp đặt từ phía cha mẹ. Cho nên theo thiết nghĩ thay vì than phiền xã hội đổi thay xóa mất những truyền thống tốt đẹp của chúng ta, nên quan niệm đây là một cơ hội để nhìn lại, một cơ hội đem truyền thống dân tộc ra thử thách để tin tưởng mạnh mẽ thêm vào những truyền thống ấy. Một điều không thể chối cải được là nhờ vào truyền thống cần cù và hiếu học
trong vòng hơn 20 năm qua con em chúng ta trong những hoàn cảnh mới, đã đạt rất nhiều thành tích khích lệ. Số tài năng thành tựu trong hơn 2 thập kỷ đã vượt hẳn các thế hệ trước và phần lớn tài năng đó đang phục vụ cho chúng ta. Nhớ lại thời xưa thản hoặc mới có 5,7 ông bác sĩ hay kỷ sư từ nước ngoài trở về nước nhà làm việc.
Cũng trong chiều hướng quan niệm truyền thống như một tiến trình sinh động, Goethe ( 1749-1832 ) nhà văn vĩ đại của Đức đã viết : “ Những điều ta thừa kế từ tổ tiên,phải tự làm ra lấy để sở đắc “ “ ( That which you inherit from your fathers, you must earn in order to possess ). Thật vậy trong mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước tổ tiên ta đã đào tạo ra bao nhiêu truyền thống tốt đẹp, truyền thống thương dân, chuộng công lý nhân aí của vua Lý Thánh Tông cách ta gần một nghìn năm ( 1054-1072 ) : “ Ta ở trong cung ,sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, ta rất thương xót “ ( Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ) .
Truyền thống hào hùng và bao dung của vua Trần Nhân Tông cởi aó ngự đắp lên xác Toa Đô, một viên tướng thuộc đội quân Nguyên xâm lược. Truyền thống của Nguyễn Trãi, của Lê Lợi mười năm nằm gai nếm mật để trừ bạo,yên dân. Truyền thống của Quang Trung anh dũng, của Phan đình Phùng, Phan bội Châu, Nguyễn đình Chiểu, Bùi hữu Nghĩa...bất khuất. Được nuôi dưỡng và trưởng thành trong cái không khí lịch sử đầy gian khó nhưng nhiều phen oanh liệt, những truyền thống đẹp đẻ đã ươm sẵn mầm mống trong lòng mỗi một chúng ta. Nhưng không phải tự nhiên cái mầm mống truyền thống tốt đẹp đâm hoa ,kết trái. Điều quan trọng trước tiên là phải học hỏi các truyền thống ấy rồi tùy công lao luyện tập, tài năng khuôn đúc, tâm thành hành sử thì truyền thộng Việt mới nẩy nở, phát huy.
Con đường đi đến tất yếu của cộng đồng chúng ta sẽ không thể không hoà đồng vào trong tập thể đông đảo trên 250 triệu, nhưng giữ được truyền thống chúng ta mới có một chỗ đứng riêng, không bị lẫn chìm và lãng quên . Phát huy được
những truyền thống Việt thì thế hệ trẻ hôm nay cũng như mai sau nhất định vẫn giữ được bản sắc của dân tộc, làm vinh dự cho cộng đồng và dân tộc.
Việc giữ gìn và phát huy truyền thống dân tộc trong một xã hội đổi thay gắn liền với giáo dục, một nền giáo dục đặc biệt mà mỗi gia đình, mỗi đoàn thể là một trường học, một vị thầy và mỗi một người là một học sinh. Không có một môi trường nào truyền thống được gìn giữ nguyên vẹn và phát triển tốt đẹp hơn trong khung cảnh gia đình. Cũng không có một môi trường nào mà chúng ta được gần gủi nhau , có dịp ôn lại và nhắc nhở cho nhau những truyền thống tốt đẹp hơn là các buổi sinh hoạt đoàn thể. Riêng về mặt cá nhân cũng cần luôn luôn học hỏi. Có những điểm xưa kia chúng ta cho là tự nhiên, tất yếu nay cần phải nghiên cứu, xem xét lại, đối chiếu với cái hay cái dở trong xã hội trước mắt để thay đổi, gìn giữ hay xóa bỏ. Công việc học và tập đó không dễ dàng. Thật khó khăn để điều hoà cái căn cước “ tên trước họ sau “ ( Mỹ ) với cái bản chất cố hữu “ họ trước tên sau” ( Việt ).
Hội Phụ huynh và Giáo chức San Diego ý thức rõ những điểm này nên đã ghi vào bảng điều lệ của Hội là Hội có nhiệm vụ “ phát huy sự hiểu biết và tôn trọng văn hoá Việt Nam”, “vận động để các cơ quan giáo dục địa phương công nhận nhu cầu giáo dục, ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam “ cũng như “ giúp phụ huynh hiểu biết về văn hóa và cơ cấu xã hội Mỹ “ và kêu gọi “ tôn trọng giá trị gia đình”. Qua qúa trình hoạt động Hội đã có những kết qủa khích lệ. Với đường hướng đi sát với đông đảo quần chúng và nhắm đến hứng thú của giới trẻ nhiều hơn tôi tin tưởng Hội đạt nhiều thành tích hơn nữa.
Tôi xin cám ơn Hội Phụ huynh và Giáo chức San Diego đã cho phép tôi được nói một đôi lời trong buổi họp hôm nay. Chúng tôi cũng xin lỗi quí vị, đã làm phiền qúi vị trong quảng 15 phút qua. Và trước khi dứt lời tôi xin được bày tỏ một niềm tin :
Dù xã hội Mỹ có khác lạ và đổi thay nhanh chóng chúng tôi tin tưởng truyền thống Việt Nam sẽ vẫn tồn tại và chúng ta mãi mãi hãnh diện giữ được bản sắc Việt Nam
nơi xa quê hương.
Kính chào quí vị.
San Diego ngày 15 tháng 11 năm 1998
( Bài nói chuyện nhân buổi Đại hội Phụ huynh và Giáo chức )
Thầy Nguyễn Đăng Ngọc