Những Người Bạn Tù Chân Tình

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive
 

 

*Người thứ nhất: Thiếu tá Lực Lượng Đặc Biệt Trần văn Cát.

 

Nói đến những người bạn thân trong tù chắc chắn ai cũng có cả. Vì trong cuộc sống tù đày, anh em thường tìm đến với nhau để cùng tâm sự, để bày tỏ những niềm vui nỗi buồn qua những ngày tháng đồng lao cộng khổ, cũng như để giúp đỡ nhau mỗi khi gặp hoạn nạn.

Tục ngữ Pháp có câu: “Anh  hãy nói cho tôi biết anh làm bạn với ai, tôi sẽ cho anh biết anh là người thế nào”. Thật vậy, những người bạn thân phải là những người tâm đầu ý hiệp. Nếu không, một sớm một chiều họ sẽ phản bội anh ngay, nhất là cuộc sống trong cảnh tù đày kéo dài lê thê, từ năm này qua năm khác và phải đương đầu với hàng ngàn trở ngại thường xuyên.

Trong khoảng thời gian ở tù dài đằng đẳng 10 năm trời, tôi cũng có những người bạn chí thân giống như trăm nghìn người khác. Chúng tôi đã từng ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu và cũng cùng bộc lộ cho nhau nghe những tư tưởng sâu kín trong tận đáy lòng mình. Những người đã tỏ ra rất thành thực, chân tình với tôi và đã trở thành những người bạn thân nhất của tôi trong cuộc đời ở tù gồm những anh Trần Văn Cát, Thiếu tá LLĐB, anh Trương Thúc Cổn, Đại úy LLĐB, cựu giáo sư trường Trung học Hàm Nghi Huế, anh Cao Hữu Hòa, cựu thông dịch viên Tòa Lãnh sự Mỹ tại Huế và anh Trần Viết Hòa, Thiếu úy.

 DVDien TranvanCat

Từ trái: Cựu Đ/U Dương Viết Điền, Cựu Th/T LLĐB Trần Văn Cát
(Hình chụp năm 1987 khi Th/T Cát vừa được phóng thích, gặp nhau tại Huế).

Trước hết tôi xin nói về anh Cát. Anh Trần Văn Cát sinh năm 1940 tại Nha Trang. Sau khi tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức, anh tình nguyện gia nhập ngành Lực Lượng Đặc Biệt của QLVNCH.

Cấp bậc sau cùng của anh Cát là Thiếu tá. Anh bị bắt tại bãi biển Thuận An rồi bị đưa vào trại tù cải tạo. Bọn Việt Cộng đã trói tay những hàng binh VNCH và bắt đi bộ hàng trăm cây số trước khi về đến trại. Lúc còn ở Trại Ái Tử, tôi chưa quen anh. Có một lần nhằm ngày tôi trực lãnh thức ăn, tôi xuống bếp để trả lại mấy cái thau đựng cơm, canh; sau khi đã chia xong phần ăn. Khi đi ngang qua sân Khối 1, tôi thấy tên Đạo, cán bộ quản giáo, đứng nói chuyện trước anh em của khối đang ngồi trên sân. Tôi nghe nó cao giọng, có vẻ giận dữ:

- Anh lập ra nhóm, hội với mục đích gì? Đã thế, anh còn giữ chức vụ quan trọng trong nhóm nữa chứ! Chức Ủy viên Quân sự! Anh muốn làm Bộ trưởng Quốc phòng thay thế Đại tướng Võ Nguyên Giáp phải không? Anh Cát, anh trả lời tôi xem nào. Anh lập hội, đoàn để làm gì?

Thì ra nó đang chất vấn anh Cát. Từ đó tôi biết anh Cát ở Khối 1 và là một trong những người chống Cộng ra mặt ngay trong trại tù cải tạo.

Mãi đến khi vào Trại Bình Điền, vì tình cờ anh Cát nằm gần tôi, chúng tôi mới quen nhau, rồi trở thành những người bạn chí thân. Lúc đó tôi có hỏi về vụ tên cán bộ Đạo tra hỏi anh ra sao, anh xác nhận là đúng. Anh Cát cho biết, anh đã thành lập nhóm hành động này từ khi còn ở Trại Cồn Tiên. Trong nhóm có cả anh Châu Đức Thảo, Thiếu tá, anh Hồ Văn Vĩnh, Thiếu tá Pháo Binh và anh Giai. Không hiểu sao, lúc vào Trại Ái Tử, tên cán bộ Đạo lại biết được. Có lẽ do hồ sơ chuyển qua từ trại cũ chăng?

Anh Cát nằm ngủ bên phải tôi, cùng chung một tổ, một khối, nên bất kỳ đi lao động chỗ nào, chúng tôi luôn luôn đi chung với nhau. Anh lớn hơn tôi 3 tuổi, cấp bậc cũng cao hơn nên tôi gọi anh bằng anh. Hai anh em sống với nhau như anh em trong nhà, kề cận với nhau như hình với bóng cho đến khi tôi được Việt Cộng trả tự do.

Nếu cách sống của tôi trầm lặng vì ít nói thì trái lại, anh Cát, tính tình bộc trực, ồn ào và nóng nảy. Nhiều lần tôi khuyên anh bớt nóng nảy, bớt giận dữ vì thường giận quá mất khôn, sẽ gây ra những hậu quả đáng tiếc cho cuộc đời tù tội. Đôi khi chỉ vì những sự việc nhỏ nhoi, không đáng kể mà gây chuyện lớn sẽ ảnh hưởng cho lý tưởng đấu tranh của mình. Lúc nào cần cương thì cương, lúc nào phải nhu thì nhu. Cương không đúng lúc, đúng chỗ, có ngày mang họa vào thân.

Anh Cát thường tỏ lộ thái độ chống đối một cách công khai ngay trong ngục tù Cộng sản. Anh không bao giờ sợ hãi, nao núng trước những đe dọa, khủng bố bạo tàn của bọn cán bộ trong trại. Anh giống như hình ảnh của Thiếu tá De Mecquenem của quân đội viễn chinh Pháp trong cuộc chiến Điện Biên Phủ năm nào. Chính viên Thiếu tá người Pháp này đã trả lời dứt khoát và thách thức với tên sĩ quan thẩm vấn của Việt Cộng Lê Mạnh Thái, lúc bị bắt làm tù binh năm 1954, như sau:

- Các ông đâu phải là kẻ chiến thắng. Các ông là lũ người dã man, tàn bạo, lấy thịt đè người. Xử dụng một lực lượng đông gấp 10, 20 lần so với lực lượng chúng tôi, để tấn công căn cứ Gabrielle, lấy số đông đè bẹp số ít thì đâu có thể gọi là chiến thắng, là chiến tích của người quân nhân được! Tôi thách các ông, bây giờ, mỗi bên một tiểu đoàn, chúng ta chiến đấu lại, xem ai chạy như vịt!

Con người anh Trần Văn Cát đúng là hình ảnh của viên Thiếu tá Pháp De Mecquenem nói trên. Anh luôn luôn trả lời “bốp chát” với bất kỳ tên cán bộ nào trong trại mỗi khi có dịp. Vì vậy anh nổi tiếng là ngang bướng, liều mạng nhất trong Trại tù cải tạo số 1 ở Bình Điền.

Có lần đi khai quang, phát rừng làm rẫy, anh Cát cầm cái rựa đưa qua đưa lại, phất phơ trước gió như đùa giỡn, chẳng đụng một nhánh cây ngọn cỏ nào. Đã thế, thỉnh thoảng anh còn đứng nghỉ, không thèm làm việc. Tên Lược, cán bộ quản giáo đội liền kêu anh lại và bảo:

- Anh Cát, anh lao động cái kiểu gì vậy? Anh đùa hả? Tại sao anh không chịu làm việc?

Anh Cát trả lời ngay:

- Làm để làm gì? Chúng tôi biết, chúng tôi sẽ không bao giờ được về cả, có làm cũng vô ích. Bằng chứng, tướng Lư Hán bên Trung Quốc, cải tạo đã 25 năm rồi đã được về đâu!

Đứng gần đó, tôi thấy tên cán bộ Lược mặt hầm hầm và có vẻ giận dữ vì không ngờ anh Cát dám tung ra một chưởng mà có lẽ cả thượng cấp cao nhất của nó cũng điêu đứng, xiểng liểng, chứ đừng nói gì đến nó. Không biết trả lời sao, tên cán bộ chỉ còn biết hằn học, đay nghiến bằng một câu, rồi bỏ đi:

- Không về anh cũng phải làm.

Mặc dầu biết chúng tôi sống với nhau rất thân, bọn cán bộ không bao giờ kêu tôi lên để hỏi dò, khai thác điều gì về anh cả. Có lẽ, sau khi nghiên cứu hồ sơ, lý lịch của tôi, chúng biết khó lòng móc nối hay moi móc từ tôi điều gì. Trước hết, tôi là dân di cư 1954, lại là một sĩ quan xuất thân từ trường Đại Học CTCT Đà Lạt và chức vụ cuối cùng là sĩ quan an ninh đơn vị. Lý lịch 3 đời tôi chắc chúng cũng biết hết: bà nội tôi bị đưa ra đấu tố một cách dã man tại quê nhà vào năm 1956 với tội danh địa chủ; ba tôi cũng từng là cựu quân nhân QLVNCH, gia đình tôi có 3 anh em đều phải đi “cải tạo”. Thêm vào đó, tôi lại lầm lầm, lì lì, ít khi mở miệng nói chuyện với ai. Chúng nghĩ, anh Cát với tôi, cá mè một lứa, có khai thác chắc cũng chả ích gì. Vì biết rõ tinh thần chống Cộng cực mạnh của anh, dù anh thường xuyên bị đe dọa, khủng bố, tôi vẫn không lo ngại những khó khăn có thể xảy đến cho bản thân hay gia đình, và tiếp tục duy trì mối giao hảo thân thiện với anh. Không như một số người khác, từng  ba hoa chích chòe trước mặt anh Cát và tôi, khiến chúng tôi lầm tưởng họ cũng là những con người còn giữ được khí phách. Đến khi thấy anh Cát bị trù dập, họ sợ bị liên lụy nên ngoảnh mặt tránh xa!

Cũng vì cái tính quá nóng nảy, anh Cát nhiều lần bị những đòn trả đũa khá nặng nề từ bạn bè đồng tù, nhất là những tên “ăng-ten”, cộng thêm các biện pháp đối phó có tính cách trừng phạt của bọn cán bộ trại.

Một lần, anh bị bắt làm tổ trưởng dẫn một số anh em đi gánh nước tưới rau. Đa số trong tổ này là những thanh niên phạm tội hình sự mới được đưa lên trại sau này. Anh Cát phân chia nhiệm vụ cho họ, ai làm xong có quyền nghỉ. Thình lình tên cán bộ Danh từ đâu xuất hiện. Thấy 2 anh ngồi nghỉ, nó la lối và đạp một anh té rớt xuống suối. Thấy vậy anh Cát can thiệp:

- Tôi khoán công việc cho họ, họ làm xong có quyền nghỉ. Cán bộ không có quyền hành động vô lý như vậy.

Tên Danh la lớn:

- Anh là người luôn luôn xách động anh em trong trại chống lại cách mạng, luôn luôn xúi giục anh em chây lười, không chịu làm việc, phá hoại kế hoạch lao động của trại. Anh liệu hồn đấy!

Trong lúc tranh luận, anh Cát vì tính tình nóng nảy sẵn có, lại đang tức giận, vừa cãi vừa quơ tay quơ chân lung tung. Tên Danh, thấy thái độ hùng hổ này, hoảng sợ, bèn ra lệnh cho anh Võ Trọng Hầu đang đừng gần đó:

- Anh Hầu, tới trói anh Cát lại cho tôi.

Anh Hầu trả lời ngay:

- Thì cán bộ tới trói anh ấy đi, sao lại bảo tôi!

- Nó có võ. Tôi tới cho nó đánh tôi à!

Caitao1975 Loren2

Cuối cùng, 2 anh làm lò rèn được điều động ra trói anh Cát lại và đem giam vào nhà kỷ luật. Dĩ nhiên 2 anh này miễn cưỡng phải làm công việc đó vì sợ tên cán bộ Danh.

Sở dĩ tên cán bộ Danh hô hoán là anh Cát có võ, có lẽ nó nghĩ, sĩ quan LLĐB của “Ngụy” chắc phải được huấn luyện ghê gớm lắm. Hàng ngày, anh Cát thường hay ngứa tay chân, mỗi khi kể chuyện võ lâm kiếm hiệp đều kèm theo những động tác diễn tả công phu tuyệt kỹ của từng môn phái. Bọn “ăng-ten” theo dõi anh chắc không thể quên những chi tiết này trong khi báo cáo lên trên. Bọn cán bộ làm gì chẳng chuyền tai nhau. Đã vậy, một lần anh Cháu, lính cũ của anh Cát, vào phòng của anh Cát và la lớn khiến ngay cả anh Cát cũng chới với:

- Thiếu tá LLĐB Trần Văn Cát đâu rồi. Đứa nào dám đụng tới ông thầy tao hả? Võ sư karaté đó. Đứa nào mà dại thế? Dám đụng tới ông thầy tao là tiêu đời đó!

Nói xong anh Cháu bỏ ra khỏi phòng. Thật ra thì anh này đang bị khủng hoảng thần kinh, cứ đi hết từ nhà này sang nhà kia, nói lảm nhảm đủ thứ chuyện. Cả trại đều biết nên đôi lúc chẳng ai thèm để ý. Anh này cũng từng vào nhà kỷ luật nhiều lần. Tuy vậy, câu nói của anh Cháu cũng làm nhiều người tin rằng anh Cát là một võ sư thật sự, nhất là mấy tên cán bộ, khi lại gần anh Cát, lúc nào cũng phải e dè.

Nhiều đêm, anh Cát rủ tôi đến gần hội trường, chỗ sân đá banh gần cột phô-tô. Dĩ nhiên là vào những đêm trời thật tối, ít người qua lại. Tại đây, anh Cát đã biểu diễn cho tôi xem mấy đường quyền thật đẹp. Có lần anh Cát rủ anh Hồ Đắc Tiêu, nhân viên tòa Thượng thẩm Huế đến đó, có tôi đi theo, hai người múa võ thật ngoạn mục. Tôi vừa đứng coi, vừa canh gác, nếu có ai xuất hiện thì báo động ngay. Anh Tiêu lớn tuổi hơn anh Cát, người lại cao, nên khi đi đường quyền, trông giống như các vũ nữ biểu diễn trên sân khấu hơn là võ sư khiến tôi suýt bật cười trong đêm tối. Tôi nhớ, hai người chỉ dợt với nhau khoảng 3, 4 lần gì đó rồi thôi vì sau đó tình trạng trong trại quá căng thẳng. Anh Cát bảo tôi, phải ôn lại võ nghệ phòng khi hữu sự mà hành động.

Ngoài chuyện võ nghệ, anh Cát còn một môn nổi bật nữa là tướng số. Anh xem tướng, bói bài, xem mồ mả, chữ ký rất hay. Cứ ngày chủ nhật, nhiều người đến tận chỗ, xin anh coi cho một quẻ. Vì nằm cạnh, tôi cũng được anh chỉ vẽ cho ít nhiều. Tôi cũng trở thành nhà tướng số và một số người cũng lặng lẽ đến nhờ xem. Anh Cát chỉ cho tôi rất nhiều thứ như bói bài theo hình bát quái, cách thức xem mồ mả qua bàn tay, xem chữ ký v.v… Tóm lại, những thứ anh biết được về nhâm, cầm, độn, toán qua bà dì ruột nổi tiếng ở Nha Trang truyền lại, anh đều chỉ cho tôi hết.

Lúc đầu chỉ một số người biết đến xin coi. Dần dẩn đồn nhau, số người muốn coi phải thay phiên nhau đặt cọc trước. Cứ thế, chủ nhật nào anh Cát cũng có quà biếu cả. Khi thì xôi, chè; khi thì bánh kẹo, chuối… Lợi dụng chuyện này, anh Cát nhắn nhủ một số anh em kiên định lập trường và đồng thời tuyên truyền chống Cộng. Anh khuyến khích họ không nên nản chí, cố gắng giữ vững tinh thần, đừng vì quyền lợi nhỏ nhoi mà phản bội anh em, phản bội lý tưởng. Được biết trong số những người đến nhờ coi bói cũng có thành phần “ăng-ten”, tôi nhắc anh phải cẩn thận.

Chính anh cũng biết rõ điều đó nên anh khéo léo tìm cách cảm hóa họ. Trong trại lúc đó, ngoài các cựu quân, cán, chính của chế độ miền Nam trước đây còn có cả thành phần dân sự. Nhiều thành phần khác nhau đã đến nhờ anh xem tướng số. Làm sao giấu được bọn cán bộ trại. Chúng bắt đầu khủng bố những người lui tới với anh. Chúng bí mật kêu từng người lên hăm dọa, khủng bố tinh thần, đến độ, những người này tình cờ gặp anh, cũng vờ ngoảnh mặt, tránh xa.

Với tình hình căng thẳng như vậy, anh Cát tạm ngưng không tiếp khách nữa. Chỉ ít lâu sau, anh lại hành nghề và “khách hàng” cũng từ từ “giang hồ tái xuất”. Đến một thời gian phong trào xem tướng cũng chấm dứt vì anh em coi đi coi lại cũng đã nhiều lần.

Qua việc coi bói toán, anh Cát đã quen biết rất đông, đủ mọi thành phần. Nhờ vậy, khi anh em có tin tức gì từ ngoài trại vào đều đến rỉ tai anh Cát ngay. Chúng tôi biết được khá nhiều tin tức trong nước, ngoài nước cũng như cả tin tức ngay trong trại. Cứ như thế, chúng tôi kéo dài cuộc sống trong tù năm này sang năm nọ mà vẫn không thấy ngày về. Cho đến một ngày, quá chán nản, tư tưởng trốn trại chợt xuất hiện trong trí tôi. Tôi không dám thố lộ cho ai, ngay cả anh Cát là người thân nhất. Tôi cứ suy nghĩ miên man về chuyện này. Nếu trốn trại theo kiểu băng rừng vượt suối như nhóm anh Châu Đức Thảo hồi ở Trại Ái Tử thì không xong. May ra chỉ có cách lẻn vào phi trường, cướp máy bay làm không tặc rồi bay ra khỏi nước là nhanh nhất! Tôi lại băn khoăn, không biết phi trường Phú Bài có còn được xử dụng hay không? Có máy bay nào đáp xuống phi đạo hay không? Làm thế nào để từ Trại Bình Điền về được thành phố Huế và từ thành phố vào thẳng phi trường? Nếu cướp được máy bay rồi thì bay sang nước nào gần nhất không Cộng Sản?

Những câu hỏi cứ lung tung trong đầu óc và tôi thấy khó có thể thực hiện được. Tuy vậy, tôi cũng mò lên hội trường, nhìn vào tấm bản đồ Việt Nam treo trên vách. Tôi thấy gần biên giới Việt Nam và Trung Quốc có một địa danh là Côn Minh. Có hình một chiếc máy bay nhỏ ngay tại đây. Tôi phỏng đoán đó là phi trường Côn Minh. Đây là phi trường gần Việt Nam nhất trên lãnh thổ Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc vẫn theo chủ nghĩa Cộng sản nhưng đang xích mích với Việt Nam. Nếu tới được Côn Minh, chắc Trung Quốc không trao trả mình về lại cho Việt Cộng và mình sẽ tùy cơ ứng biến, tìm cách vượt sang Hồng-Kông. Tưởng tượng vậy thôi chứ thực hiện được điều này là cả một vấn đề!

Bỗng một đêm nọ, anh Cát kêu tôi ra ngoài sân hỏi nhỏ:

- Điền, trốn trại không?

Tôi hơi giật mình, đưa mắt nhìn anh dọ dẫm:

- Ủa, tôi đang nghĩ đến chuyện đó.

Anh Cát tiếp:

- Vậy mà mình tưởng Điền nặng gánh gia đình quá nên không dám, bây giờ mới nói.

Tôi buột miệng ngay ý nghĩ từng lẩn quất trong đầu:

- Nhưng trốn cách nào cho vừa nhanh, vừa gọn chớ trốn theo kiểu băng rừng vượt suối như những người đi trước phiêu quá. Chỉ có cách làm không tặc là hay nhất.

Anh Cát hỏi lại:

  • Điền dám hành động không?

Tôi đáp không suy nghĩ:

- Ra đi là một sự đã liều. Nếu anh nghiên cứu làm sao lọt vào được phi trường Phú Bài và hỏi xem phi trường này còn xử dụng được không thì tôi làm ngay.

Anh Cát đắn đo một chút rồi lên tiếng:

- Khó lắm, không được đâu!

Mà thật thế, trốn trại kiểu này quả là một vấn đề không dễ dàng. Thật ra, anh Cát chỉ mới cho tôi biết ý định trốn trại thôi chứ chưa đề cập đến sẽ làm thế nào và gồm những ai. Trước đó, tôi thấy anh bí mật liên lạc với anh Nguyễn Thiện Tín, Đại úy, Mục sư Tuyên úy và anh Thịnh, Chuẩn úy. Vì vậy, tôi đoán, có thể sẽ trốn trại với những anh này.

Chỉ một lần thì thầm với nhau như vậy thôi. Có lẽ sau đó thấy việc trốn trại là cả một vấn đề phức tạp, những người trốn trước đây đều bị bắt lại, nên không thấy anh Cát đề cập đến chuyện trốn trại nữa. Riêng phần mình, tự hiểu được con đường không tặc cũng chỉ là viển vông nên tôi cũng quên luôn. Rồi lại nối tiếp những quãng ngày tháng tù tội. Nhiều lần ban giám thị trại cố tình “biên chế” (một phương pháp xáo trộn tù nhân giữa các đội với nhau mục đích tránh anh em tù kết bè, kết nhóm làm chuyện mờ ám), anh em tù bị chuyển từ nhà này sang nhà khác, đội này qua đội nọ. Một điều lạ lùng, mỗi lần biên chế, anh Cát và tôi vẫn cùng chung một đội.

Có lẽ chúng tôi quá thân với nhau vì cùng cứng đầu cứng cổ như nhau, dù rằng cách thể hiện khác nhau, một người bộc trực, nóng nảy lộ ra ngoài, một người lầm lì, ngậm câm, không thèm nói năng gì cả. Với cái tình thân này, anh Cát đã tặng tôi một viên ngọc bẹt quý nhất đời anh trong tù. Theo anh kể, nhờ viên ngọc này, anh đã thoát chết nhiều lần qua nhiều cuộc hành quân. Hình như trước đó là của một người Miên luyện rồi tặng cho anh và bày cho anh cách thức để luyện tiếp. Khi tặng nó cho tôi, anh đọc cho tôi nghe câu thần chú và bắt tôi học thuộc lòng. Viên ngọc này có một cục ngải nhỏ nằm bên cạnh và như anh nói, đó là viên ngọc may mắn. Nếu gặp bất cứ điều gì trở ngại, cứ đọc câu thần chú sẽ thoát nạn. Tôi hoan hỉ tiếp nhận viên ngọc anh trao cho. Sau khi có tin sắp về, tôi đã bí mật gởi về cho vợ tôi và dặn đặt nó vào một góc bàn thờ như anh Cát từng dặn. Khi về lại quê nhà, tôi tới bàn thờ tìm thì viên ngọc không còn nữa, chỉ còn cục ngải mà thôi. Coi lại kỹ, cái vật đựng viên ngọc đã bị sét, hổng một lỗ nhỏ nhưng cũng đủ chỗ cho viên ngọc cỡ nửa hột tiêu lọt ra ngoài. Có lẽ vì vậy mà vợ tôi không để ý nên vô tình làm mất viên ngọc từ hồi nào. Mất viên ngọc, tôi  quay quắt tiếc.

Nhớ có lần tên cán bộ Quy, người Bắc, thấy anh Cát đeo viên ngọc này ở cổ, nó hỏi:

- Anh Cát đeo cái đó nơi cổ làm gì vậy?

Anh trả lời cụt ngủn:

- Đeo chơi!

Có lẽ mấy tên “ăng-ten” báo cáo nên tên này tò mò, cố ý lại gần dò hỏi xem anh có nói gì về bùa ngải không, nào ngờ anh trả lời như vậy.

Chính tên cán bộ Quy này đã làm anh điêu đứng về vụ cây dao găm, đúng hơn là cái lưỡi lê. Lúc ở Trại Ái Tử mới vào, anh Cát có mang theo một cây dao găm, giống như cây lưỡi lê, do anh tự làm. Khi đi công tác ngoài rẫy, anh thường mang theo để gọt vỏ khoai, vỏ sắn hoặc làm các việc lặt vặt khác. Nhiều người chung đội biết anh có con dao này. Thực ra trong trại ai cũng có dao cả. Hầu hết là tự làm để gọt vỏ khoai, sắn, cắt rau nên không đáng quan tâm vì con nào cũng vừa đùi, vừa phẳng ở phía đầu dao. Duy chỉ có con dao của anh Cát là to nhất và hơi giống cái lưỡi lê. Anh Cát dùng được vài tháng thì tên cán bộ Quy gọi lên và bắt nộp con dao đó. Anh Cát trình bày là con dao đó đã đánh mất từ lâu nhưng nó không tin. Cán bộ

Quy bắt anh phải nộp ngay. Anh Cát vẫn không nộp lấy cớ đã mất rồi. Thế là vào một buổi tối, tên Quy tập họp cả đội lại để nói về con dao của anh Cát.

 Nó nói:

- Tôi biết anh Cát còn giữ con dao chứ chưa mất. Anh phải đem nộp cho trại gấp. Anh giữ nó để làm gì? Có phải chờ cơ hội để giết chúng tôi không hay dùng để trốn trại?

Anh Cát trả lời:

- Con dao đó đã mất lâu rồi. Không tin cán bộ cứ tìm đi.

Tên Quy bảo:

- Anh đem giấu nơi khác rồi làm sao tôi biết nó ở đâu mà tìm. Anh phải tự giác đem nộp con dao ấy cho trại gấp.

Nói xong nó bỏ ra khỏi phòng. Anh Cát đúng là một người liều lĩnh vì khi nói mất, con dao vẫn nằm chình ình trong ba-lô của anh. Anh định tìm cách tẩu tán nó sau buổi họp. Riêng về phần mấy tên cán bộ, chúng tin rằng anh đã dấu nơi nào khác nên không lục soát. Sáng hôm sau, không hiểu nghĩ gì, anh Cát vẫn chưa chịu tẩu tán con dao. Thế rồi đội tôi được lệnh lên bóc đậu phộng tại cơ quan của trại. Tên Quy lại đến bên anh đe dọa đủ điều và bắt anh nộp dao ngay. Lúc nghỉ việc, trên đường về trại, tôi khuyên anh phải tìm cách tẩu tán con dao gấp, nếu không sẽ bị kẹt. Trưa hôm đó, anh Cát không ngủ, anh giả bộ lấy mùng mền, quần áo đem ra giếng giặt. Trong lúc không ai để ý, anh lẹ tay nhét con dao trong đống đồ giặt ôm thẳng ra giếng. Đợi lúc không có ai, anh thả con dao xuống giếng phi tang rồi mới giặt đồ. Thế là xong! Cho dù chúng nó có lục soát ba-lô hay bất cứ xó xỉnh nào quanh chỗ anh Cát ngủ cũng chả thấy gì cả.

Nhưng, phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí! Vì đang mùa hè, nước giếng cạn dần. Đã thế, anh em múc nước nhiều quá nên nước giếng bị đục mấy tuần rồi. Thấy giếng cạn, nước lại đục, trại ra lệnh vét giếng. Trưa hôm anh Cát thả con dao xuống, 2 giờ chiều anh em được lệnh vét giếng. Nghe tin này, anh Cát hơi choáng váng. Đội tôi được chia làm hai nhóm, một nửa tiếp tục lên cơ quan bóc vỏ đậu phộng, trong đó có tôi và anh Cát; số còn lại đi vét 2 cái giếng, một cái của cơ quan và một cái của trại. Hết giờ làm việc, tôi vừa vào trại thì gặp anh Vệ cũng vừa vét giếng về. Anh nói nhỏ:

- Tao lượm được cây dao dưới giếng, tao biết là của anh Cát. Để lát nữa tao trao lại cho anh ấy.

Lấy lại được con dao, anh Cát nhẹ người, nhưng đêm đó lại mất ngủ. Tối đó, tôi bàn với anh, phải tìm cách tẩu tán nó gấp. Anh nói nhỏ với tôi:

- Mình biết thằng chó đẻ nào đã báo cáo con dao này rồi!

Tôi hỏi ai, anh nói:

-  Mình nhớ có một lần ngồi mài dao dưới suối, cái lão già lúc đó đang nấu cơm cho tụi cán bộ có nói một câu, bây giờ mình mới nghiệm ra.

- Ông ta nói gì với anh?

Tôi tò mò hỏi. Anh trả lời:

- Nó bảo mình rằng, bữa nay mà còn mài dao găm để cắt tai, xẻo mũi ai nữa. Vì vậy mình nghi nó chứ không ai cả. Chính nó là thằng nấu cơm cho tên cán bộ Quy ăn hàng ngày! Ai vô đây nữa.

Tôi đưa ý kiến:

- Cũng có thể mà cũng chưa chắc. Tụi “ăng-ten” thiếu gì, trong tổ, trong đội ai mà chả biết anh có dao găm.

Nghe tôi nói thế, anh Cát lại suy nghĩ. Bỗng nhiên anh nói:

- Hay thằng tóc quắn nằm bên phải mình? Mình thấy nó nhiều lần thì thầm to nhỏ với lão già nấu cơm. Chính thằng này biết mình có con dao đã từ lâu.

Cuối cùng anh đi đến kết luận:

- Có lẽ thằng tóc quắn cố vấn cho lão già nấu cơm và chắc chắn lão ta là người báo cáo cho cán bộ Quy.

Tôi chỉ còn biết nhắc chừng:

- Dầu gì anh cũng phải đem con dao đi dấu chỗ khác gấp mới được. Nếu không sẽ mệt với tụi nó đấy.

Đêm ấy, tôi và anh bàn kế hoạch tẩu tán. Chúng tôi quyết định, ngày mai đi lao động, lợi dụng 15 phút nghỉ trước khi về để ra suối tắm, chúng tôi sẽ đem con dao dấu ở một gốc cây nào đó bên bờ suối. Anh Cát nói với tôi, sở dĩ anh không muốn vất con dao này đi vì đây là vật kỷ niệm của anh. Kế nữa, anh dự tính trong tương lai, nếu có trốn trại thì con dao này là vật rất cần thiết. Vì vậy, anh nhất quyết phải giấu nó chờ lúc hữu sự có thể dùng đến.

Sáng hôm ấy, sau khi đánh răng súc miệng xong, tôi nói với anh:

- Giắt lẹ con dao vào lưng quần ngay, nếu không tí nữa trời sáng quá tụi nó thấy.

Anh làm theo, lợi dụng lúc đội đang lộn xộn nhận phần khoai buổi sáng. Nhận khoai xong, cả đội ngồi ăn điểm tâm. Tôi để ý thấy anh chỉ lấy tay bóc vỏ chứ không dùng dao gọt như thường lệ. Hành động này chứng tỏ dao anh đã mất từ lâu. Thỉnh thoảng anh lại nhếch mông một cái vì cây dao giắt ở lưng quần đụng vào da làm anh đau điếng. Thấy thế tôi liếc anh cười nụ, anh cũng nhoẻn miệng cười đáp lại. Mấy anh ngồi cạnh thấy hai đứa nhìn nhau cười chả hiểu chuyện gì.

Tiếng kẻng tập họp đi làm vang lên. Như thường lệ, chúng tôi ra tập họp và sau đó đến nhà kho lãnh cuốc để chuẩn bị ra rẫy. Không ngờ, khi đến nhà kho, tên cán bộ quản giáo lại ra lệnh thay đổi công tác. Thay vì đi rẫy, nhiệm vụ đội tôi sáng nay là sửa lại nền nhà. Nghe vậy, tôi liếc nhìn anh Cát và đá lông nheo ngầm ra hiệu cho anh phải cẩn thận. Anh cũng gật gù cái đầu trả lễ như muốn nhắn nhủ hãy yên tâm vì con dao vẫn còn nằm yên trong lưng quần, không ai biết đâu. Suốt buổi sáng, tôi với anh Cát, mỗi người một cái “đằm”, đi qua đi lại, nhắc lên dậm xuống trên cái nền nhà mà không có lòng dạ để xem cái nền cứng hay mềm, có bằng phẳng hay không. Khi tiếng kẻng báo giờ giải lao, mọi người tìm chỗ ngồi nghỉ chân vì suốt 2 tiếng chỉ có đi qua đi lại, chân rất mỏi. Tội nghiệp anh Cát, vướng con dao trong lưng quần anh chỉ còn nước đứng. Ngồi xuống con dao sẽ cấn vào lưng gây đau đớn, hơn nữa cán dao sẽ lòi ra khỏi lưng quần, đẩy cái áo phồng lên, mọi người sẽ không khỏi thắc mắc. Hết giờ giải lao, anh Cát dành lấy chiếc “đằm” để tiện việc đi tới đi lui, nếu không, làm việc khác dễ bị ở trong tư thế cúi lưng hay đứng lên ngồi xuống là lộ tẩy ngay. Cuối cùng kẻng bãi việc cũng đã vang lên. Tôi la to lên và hy vọng các anh em khác hưởng ứng:

- Hết giờ rồi, xuống suối tắm và rửa cuốc xẻng lẹ còn về!

Không nói thế tôi sợ cán bộ bắt vô trại tắm giếng thì hỏng hết. Không hiểu vì nghe tôi nói hay vì nước giếng trong trại ít quá nên tên cán bộ cũng đồng ý cho chúng tôi ra suối. Thở phào nhẹ nhõm, tôi ghé sát tai anh Cát nói nhỏ:

- Let’s go quickly (Chúng ta đi ngay thôi).

Thế là chúng tôi theo đội đi nhanh ra suối. Vừa đến bờ suối, anh Cát và tôi tách rời đội ngay và cùng nhau qua bến khác cách đó một khúc không xa lắm. Anh Cát bảo tôi:

- Điền đứng canh chừng nghe chưa.

Tôi đáp:

- Được rồi, lẹ lên anh.

Anh Cát cởi quần áo và cầm con dao bay ngay xuống suối. Bơi vào chỗ gốc cây sát bờ suối có tàn lá phủ kín cả một vùng, anh cắm phập con dao xuống lớp đất bùn lút ngập hết cán dao. Nhìn lại một lần để xem chắc con dao đã nằm yên dưới đám sình cũng như xác định lại vị trí của nó, anh bơi ra và lên bờ. Tôi bước lại gần anh hỏi:

- Nhớ chắc chỗ chôn nó chưa? Bữa nào ra lấy khỏi mất công đi tìm.

Anh trả lời:

- Có làm dấu rồi.

Thế rồi chúng tôi rửa tay chân và dụng cụ thật nhanh và chạy về chỗ cả đội đang tắm. Đến khi tên cán bộ ra hiệu tới lúc vào trại, cả đội lên bờ, tập họp, đếm số kiểm tra người rồi nối đuôi nhau về trại.

Tối đó, nằm bên tôi, anh Cát nói một cách đắc chí:

- Thế nào bọn cán bộ cũng tìm cách lục soát. Tiên sư chúng nó, chấp chúng nó tìm ra cây dao.

Đúng như dự đoán, vì anh Cát không chịu nộp, vài hôm sau, bọn cán bộ đã cho người lẻn vào lục soát ba-lô cũng như chỗ ngủ của anh Cát, trong lúc cả đội ra ngoài lao động. Không kiếm được, cũng không thấy anh Cát xử dụng con dao nữa nên một thời gian sau chúng im luôn. Mấy tháng sau, một hôm trên đường gánh khoai về trại, chợt nhớ tới con dao, anh Cát rủ tôi ra suối, đến chỗ đã dấu nó để tìm. Đến ngay chỗ cũ, anh đặt gánh khoai xuống, giả bộ khoát nước rửa mặt, lấy tay mò mò. Con dao không còn nữa. Phần đất ngay cái gốc cây, nơi anh Cát cắm con dao đã bị sụt lở và nước nguồn chảy xoáy mạnh cuốn trôi đi mất đâu rồi.

Là một người luôn luôn chống lại đám cán bộ và thường xách động anh em trong trại nên anh bị chúng xếp vào thành phần đại nguy hiểm. Sợ một ngày nào đó, anh sẽ xúi dục anh em trong trại nổi dậy chống lại nên bọn chúng tìm cách ngăn chặn trước. Chúng cố tìm những sơ hở của anh để ghép tội vi phạm nội quy hầu bắt nhốt anh giam vào nhà kỷ luật, nhưng vẫn chưa tìm ra. Thình lình vụ 20-4 bùng nổ tại Trại 4, gần Trại 1, do 3 sĩ quan cấp Tá lãnh đạo, bọn cán bộ Trại 1 sợ anh em trong trại bắt chước làm theo nên đã giăng một mạng lưới “ăng-ten” dày đặc trong trại để ngăn ngừa. Hơn bao giờ hết, mọi hành vi của anh Cát đều bị tụi này theo dõi chặt chẽ và báo cáo lên ban giám thị.

Thấy tình hình có vẻ căng thẳng, tôi bảo anh:

- Tình hình trong trại căng lắm đấy, anh em mình phải cẩn thận mới được. Anh tạm thời hạn chế tiếp xúc với bạn bè ngoài đội. Chắc chắn chúng đang theo dõi mình sát nút.

Tuy vậy cuối cùng anh Cát cũng bị đưa vào nhà kỷ luật. Câu chuyện xảy ra thật không ngờ! Vào một buổi sáng chủ nhật, tôi và anh Cát lấy vở ra học Anh văn. Sau đó, vì còn một bộ quần áo chưa giặt, tôi phải ngưng học để ra giếng giặt đồ. Riêng anh Cát vẫn ngồi tiếp tục học. Tôi vừa cầm bộ quần áo bước ra khỏi cửa thì thấy tên cán bộ Năm, phụ trách an ninh trại, bước vào. Giật mình, quay lại định ra dấu cho anh Cát dẹp sách Anh văn gấp. Nhưng đã quá muộn! Tên Năm đi nhanh về phía anh Cát và bắt tại trận. Vin vào cớ đó, tên Năm gọi anh Cát lên làm việc và ra quyết định tống giam anh vào nhà kỷ luật một tháng.

Sau khi được thả ra, anh Cát kể cho tôi nghe việc xảy ra khi anh bị kêu lên làm việc. Tên cán bộ Năm đã đấm vào mặt anh, anh phản ứng bằng cách đưa tay đỡ đòn và né tránh. Tức tối, nó liền chỉ vào mặt anh và nói:

- Anh đừng tưởng anh ngon lành. Nghiệp vụ của Mỹ giao cho anh không bằng nghiệp vụ của tôi đâu.

Qua câu nói này, tôi thấy rõ, chúng nghĩ rằng anh Cát là CIA của Mỹ. Thảo nào chúng giăng lưới “ăng-ten” để theo dõi anh Cát thường xuyên.

Nhưng rồi ngày qua tháng lại, anh chả có những hoạt động gì tỏ ra “chống phá cách mạng”, theo cách gọi của chúng, nên từ từ, chúng cũng lơ lần và chỉ còn dặn dò đám “ăng-ten” phải tiếp tục theo dõi mà thôi.

Kể từ khi được trả tự do, tôi cứ nghĩ rằng khó có cơ hội gặp lại anh Cát, một người bạn đàn anh, suốt đời chống Cộng vì lý tưởng tự do, ngay cả khi còn trong vòng giam cầm của bọn chúng, vẫn không hề sợ hãi, khuất phục. Nào ngờ, một buổi trưa, lúc tôi đang từ trong một tiệm sách tại đường Trần Hưng Đạo ở Huế bước ra đường, bỗng thấy một người, mặc bộ quần áo “cải tạo”, đi trước chợ Đông Ba, giống anh Cát quá. Tôi liền chạy băng qua đường đến phía trước mặt. Rõ ràng là anh Cát. Hai anh em ôm nhau mừng rỡ như đã xa nhau hàng thế kỷ mới gặp lại! Tôi cất tiếng hỏi:

- Anh mới về hả? Còn anh Tấn, anh Cang, anh Liễn đâu?

Anh vừa cười vừa trả lời:

- Tụi nó về trước mình rồi. Mình chờ đóng cửa trại nên về sau cùng! Có thằng cán bộ đến vỗ vai mình và bảo mình đáng được giữ chức vô địch vì đã ở lại cho đến lúc đóng cửa Trại Bình Điền đấy!

Thế là hai anh em rủ nhau đi phố vài vòng cho bõ những ngày xa cách nhau. Vừa đi, tôi vừa hỏi:

- Như vậy, anh ở tù tất cả mấy năm?

Anh hóm hỉnh trả lời:

- Hơn Điền có 3 năm thôi, 13 năm chẵn!

(Trích từ hồi ký tù cải tạo Trại Ái Tử và Bình Điền, xuất bản năm 1993, tái bản năm 2003) 

Dương viết Điền

 

Người thứ hai: Đại uý Lực Lượng Đặc Biệt Trương thúc Cổn.

Bây giờ, tôi xin kể đến người thứ hai, anh Trương Thúc Cổn. Gọi là bạn chứ thực ra anh Cổn lớn hơn tôi tới 6 tuổi, nên tôi vẫn thường kêu anh Cổn bằng anh.

Anh Cổn sinh năm 1937 tại Quảng Trị. Anh đang dạy học thì được lệnh động viên gọi theo học khóa 14 Thủ Đức. Sau ngày mãn khóa, anh tình nguyện gia nhập Lực Lượng Đặc Biệt. Cho đến khi mang cấp bậc Đại úy, anh được biệt phái về Bộ Giáo Dục và chuyển về dạy học tại trường Trung học Hàm Nghi ở Huế.

LucLuongDacBiet3

Năm 1975, anh bị đưa vào Trại tù cải tạo Ái Tử tại tỉnh Quảng Trị, sau đó về Bình Điền. Do tình cờ, anh nằm bên trái tôi nên chúng tôi quen biết và trở thành thân nhau. Anh là một trong những người có sức khỏe kém nhất trong đội. Có lẽ do cái bệnh đau lưng kinh niên khiến anh đã yếu, ngày càng yếu hơn, do ăn uống thiếu thốn mà lao động lại quá sức. Trong mọi sinh hoạt hàng ngày, anh luôn luôn chậm chạp hơn tất cả mọi người. Việc này khiến nhiều anh em khác trong đội lắm lúc phải bực mình. Nhiều người đã làm xong công việc, muốn nghỉ ngơi nhưng phải đợi toàn đội hoàn tất công tác mới được phép! Lúc đầu họ tỏ vẻ khó chịu, lâu ngày, anh em quen dần với sự chậm chạp của anh, hiểu được điều kiện sức khỏe yếu kém của anh nên họ cũng thông cảm.

 TruongThucCon DuongVietDien

Từ trái: Cựu Đ/U LLĐB Trương Thúc Cổn, Cựu Đ/U Dương Viết Điền
(Hình chụp năm 1987 Đ/U Cổn vừa được phóng thích, gặp nhau tại Huế).

Anh Cổn sống chung cùng đội với tôi khá lâu, cũng khoảng 2 năm mới phải tách rời. Vì sức khỏe kém nên anh được “biên chế” qua đội Rau xanh, làm việc quanh trại, không phải đi xa. Dĩ nhiên, dù khác đội, chúng tôi vẫn tìm cách bí mật liên lạc với nhau để trao đổi tin tức.

Khoảng năm 1983, cũng do “biên chế”, tôi lại ở chung đội với anh Cổn. Trong thời gian ở đội Rau xanh này, đội chuyên trồng rau để cung cấp cho trại, anh Cổn đã mất ăn mất ngủ hàng tháng vì bị bọn cán bộ trại đe dọa, khủng bố thường xuyên.

Tuy lớn tuổi hơn tôi nhưng anh Cổn vẫn còn độc thân nên không phải bận tâm về gia đình. Có lẽ vì vậy, anh tỏ ra liều lĩnh và gan dạ hơn người chăng? Nếu anh Trần Văn Cát thường đương đầu với bọn cán bộ theo kiểu võ biền thì ngược lại, anh Cổn lại áp dụng đường lối ôn hòa, bằng những phương thức có tính cách chính trị.

Anh là người thường xuyên đấu trí với bọn cán bộ làm chúng phải điêu đứng nhiều phen. Đối lại, ban giám thị trại cũng không ngại ngùng dùng những thủ đoạn đe dọa, khủng bố khiến anh Cổn phải xiểng liểng liên tục. Trong hoàn cảnh tù đày, lý lẽ của kẻ mạnh thuộc về bọn cai ngục. Kết quả, sau những lần đấu trí, dù áp đảo được bọn cán bộ, anh vẫn bị chúng tống vào nhà kỷ luật. Bị đưa vào nhà giam nhiều lần, anh Cổn vẫn không tỏ ra nao núng, sợ sệt, lúc nào cũng nở một nụ cười, miệt thị cách trả thù hèn hạ của bọn cai tù. Anh sống một cuộc sống thoải mái, bình dị, không thèm bon chen để kiếm thêm một chút lợi lộc vật chất nhỏ nhoi nào đó, dù anh không được ai thăm nuôi cả. Sau này, có một người bạn gái có lên thăm anh đâu vài ba lần nhưng quà cáp cũng chả là bao. Việc thăm nuôi này không thể hiện bằng vài món quà vật chất tầm thường mà nói lên sự thủy chung tình cảm cao đẹp giữa bạn bè, giữa con người với nhau trong một hoàn cảnh khốn cùng.

Để có được sự bình thản trong tâm hồn, hàng đêm, sau một ngày lao động mệt nhọc, anh vẫn dành thời giờ im lặng ngồi thiền trong bóng tối. Anh đúng là một mẫu người mà “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Dĩ nhiên, tôi muốn nói về anh Cổn theo ý nghĩa của câu “nhân vô thập toàn”.

Vì thân thiết, anh Cổn thường tâm sự với tôi khá nhiều. Năm 17 tuổi, anh đã gặp ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam tại Quảng Trị. Sau cuộc đàm thoại ngắn ngủi, nhìn sắc diện anh Cổn, ông Nhất Linh đã thoa đầu anh và nói:

- Bác đặt hy vọng ở cháu rất nhiều.

Tuy vậy, anh Cổn vẫn không muốn vào Đảng mặc dù anh rất thích làm chính trị ngay từ thuở thiếu thời.

Hồi còn học trường Quốc Học ở Huế, khi thấy anh Cổn có tài ăn nói hùng biện, có nhiều nét nổi bật so với các học sinh khác trong lớp, giáo sư Dương Thiệu Tống đã từng bảo anh:

- Trong tương lai, trò phải làm lãnh tụ mới được!

Chỉ cần vài nhận xét của các bậc tiền bối, cũng như qua tiếp xúc với anh, tôi thấy anh có những nét độc đáo khác người. Không những thế, trong cuộc sống tù đày tại trại tù cải tạo, những nét độc đáo đó càng thể hiện rõ rệt hơn. Ở Trại 1 cải tạo Bình Điền, mỗi lần nhắc đến tên anh, tên cán bộ nào cũng đều biết hết.

Anh luôn luôn tỏ ra liều lĩnh, gan dạ. Tôi nhớ có lần ngồi ở nhà lô của đội Rau xanh trong lúc giải lao, một căn chòi để anh em ngồi nghỉ trong lúc canh gác, bảo vệ hoa màu, chỉ có tôi, anh Vệ và một tên cán bộ dẫn giải. Tên này, mới đổi về trại chừng vài tháng, nhìn anh Cổn hỏi:

- Tôi nghe nói anh lì lợm lắm phải không anh Cổn?

Anh lấy tay chỉ vào đầu:

- Lì lắm, lì lắm!

Thế mà tên cán bộ chỉ nhe răng cười, lắc đầu, không nói năng gì cả.

Anh Cổn hay đọc sách tiếng Anh lúc rảnh rỗi. Không những thế, anh còn dạy Anh văn cho nhiều anh em trong trại. Anh dạy công khai, không sợ sệt, mặc dù đây là việc “quốc cấm” trong các trại tù cải tạo. Chính vì vậy, anh bị gọi lên đe dọa thường xuyên. Trước mặt bọn chúng, anh vẫn điềm nhiên trả lời rất chững chạc. Anh bảo, trước đây anh là giáo sư dạy môn Anh ngữ và Việt văn nên việc đọc sách tiếng Anh chỉ nhằm trau dồi nghề nghiệp. Còn dạy Anh văn, chẳng qua anh muốn giúp bạn bè biết thêm một ngoại ngữ ngõ hầu đọc được sách báo ngoại quốc, thu thập thêm những kiến thức văn minh của các nước tiên tiến, nhất là những vấn đề khoa học kỹ thuật để sau này, khi được tha về, có cơ hội góp phần phục vụ đất nước tốt hơn!

Nghe anh trả lời vậy, bọn cán bộ cứng họng. Chúng chỉ còn cách buộc tội anh là đã vi phạm nội quy để cấm anh không được tiếp tục vì sợ anh lợi dụng chuyện đó để móc nối anh em, tuyền truyền chống đối. Dù bị đe dọa, anh vẫn lén đọc. Bất kỳ sách báo nào bằng tiếng Anh, lượm được hay bạn bè tặng cho, mà nguồn cung cấp là do một số thân nhân, bí mật lén chuyển vào trại trong những lần thăm nuôi.

Vì nổi tiếng như vậy, một vài cán bộ lén đến gặp anh để mượn sách học, chẳng hạn như tên cán bộ Dương, sinh quán miền Bắc. Nó kín đáo đền tìm anh nhiều lần, mượn sách cũng có, nhờ anh dạy tiếng Anh cũng có.

Một vụ xảy ra vào năm 1984 tại Trại Bình Điền, liên quan đến Đại Đức Thích Thiện Tấn, đã khiến anh phải đương đầu với ban giám thị trại suốt mấy tháng trời, mất ăn mất ngủ.

Đại Đức Thích Thiện Tấn là một nhà sư bị đưa lên trại vì nằm trong tổ chức mệnh danh là “Da vàng” chống Cộng sản Việt Nam. Sau khi tìm hiểu nhau qua những giờ rảnh rỗi, anh Cổn đã làm quen với nhà sư này. Hai người quen nhau nhanh chóng cũng một phần vì hai người có chút liên hệ bà con. Theo vai vế, Đại Đức Thích Thiện Tấn phải gọi anh Cổn bằng dượng. Vì vậy, hai người thường gặp gỡ nhau tâm sự. Dĩ nhiên, khi thì công khai, khi thì bí mật để tránh sự theo dõi của đám “ăng-ten” được chừng nào hay chừng đó.

Vào một buổi tối, sau khi ăn cơm xong, tôi đang nằm học châm cứu thì anh Trần Viết Hòa, nằm cạnh tôi, nói nhỏ cho tôi biết, anh Cổn đang dịch một bài diễn văn từ tiếng Việt sang tiếng Anh cho Đại Đức Thích Thiện Tấn để chờ phái đoàn Liên Hiệp Quốc đến thăm trại sẽ đọc. Nghe có phái đoàn Liên Hiệp Quốc sắp đến trại tôi mừng quýnh lên, không thèm hỏi thêm, trèo lên tầng trên, chỗ anh Cổn nằm để biết hư thực. Ở tù lâu quá, sang năm thứ 10 rồi vẫn chưa được trả tự do, tâm trí tôi nhiều lúc rối loạn, hành động nhiều khi không còn bình tĩnh sáng suốt, làm mà không còn e dè hậu quả, tới đâu thì tới.

Lần này, tôi nghĩ bụng, quyết chí tham gia vào nhóm hành động để tố cáo chế độ lao tù của Cộng sản trước phái đoàn Liên Hiệp Quốc. Trong thời gian giữ trâu, tôi đã bí mật sáng tác được bản nhạc “Tiến về Đông Dương”. Vì vậy nhân có phái đoàn Liên Hiệp Quốc đền, tôi muốn trình diễn bài này cho phái đoàn nghe để khi họ rời Việt Nam, họ sẽ vận động kêu gọi nhân dân thế giới tiến về giải phóng cho Việt Nam nói riêng, và toàn cõi Đông Dương nói chung. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở, nếu không tham gia thì chắc suốt kiếp tù đày, khó mà có cơ hội như thế này nữa.

Vừa đến chỗ anh Cổn, tôi thấy anh đang cầm cây bút ngồi hí hoáy viết. Tôi ngồi xuống bên cạnh, hỏi nhỏ:

- Này, phái đoàn Liên Hiệp Quốc sắp đến phải không? Nghe đâu anh đang dịch bản văn của Đại Đức Thích Thiện Tấn ra tiếng Anh để chờ phái đoàn đến sẽ đọc, đúng không?

Anh Cổn trả lời:

- Không phải dịch mà đích thân mình viết cho Đại Đức Thích Thiện Tấn luôn.

Sợ để mất cơ hội ngàn vàng, tôi liền nói với anh Cổn:

- Vậy mà anh không nói cho tôi biết với. Nhờ anh nói với Đại Đức cho tôi tham gia vào nhóm ấy đi. Nhân tiện tôi sẽ trình bày bản nhạc “Tiến về Đông Dương” trước phái đoàn do tôi sáng tác luôn.

Thấy tôi có vẻ nôn nóng, anh Cổn mỉm cười bảo:

- Từ từ để mình nói cho nghe. Đại Đức Thích Thiện Tấn mới nhờ mình chiều nay mà thôi. Đây không phải là do một nhóm hành động. Chỉ có mình Đại Đức Thích Thiện Tấn mà thôi.

Nghe anh nói thế, tôi thật thất vọng. Cơ hội ngàn năm một thuở không thể thực hiện. Ngay bây giờ, việc anh Cổn đang làm tôi cũng không giúp gì được. Tôi bèn nói vài câu từ giã anh và chuẩn bị bỏ về chỗ mình. Anh Cổn khẽ níu tôi lại, ghé sát tai tôi thì thầm:

- Mai mình sẽ kể vụ này cho mà nghe.

Trước khi về chỗ, tôi còn nuối tiếc:

- Nhớ thuộc lòng rồi viết lưu lại cho tôi một bản nghe.

Anh trả lời:

- Được rồi.

Sáng hôm sau, tôi dắt con Pháo, tên con trâu trại giao cho tôi chăn giữ đến cột vào một gốc chuối và ngồi nghe anh Cổn kể vụ phái đoàn Liên Hiệp Quốc đến. Vì anh Cổn đang làm cỏ ở đội Rau xanh, còn tôi giữ trâu, nên tôi có thể đến chỗ anh dễ dàng, nhất là trong khoảng thời gian giải lao. Anh nói, không hiểu nghe nguồn tin từ đâu mà Đại Đức Thích Thiện Tấn báo cho anh biết sẽ có một phái đoàn Liên Hiệp Quốc sắp đến trại. Ông ta muốn một mình, đại diện Phật Giáo trong trại, đứng ra tố cáo chế độ lao tù của Việt Cộng trước phái đoàn Liên Hiệp Quốc. Vì Anh ngữ hơi “yếu” nên ông nhờ anh Cổn soạn dùm bài. Khi nghe vậy, anh có nhắc nhở Đại Đức Thích Thiện Tấn phải nên cẩn thận kiểm soát lại nguồn tin, có thể không chắc chắn. Theo anh, nếu có cho phép một phái đoàn quốc tế nào đó vào thăm một trại tù cải tạo thì bọn Việt Cộng dại gì đưa vào Trại Bình Điền. Biết bao trại ngoài Bắc, chúng dễ sắp đặt hơn. Vả lại, dù có xảy ra tại Bình Điền, tụi nó đâu có ngu mà để cho phái đoàn tiếp xúc với anh em phe ta. Chúng phải đẩy cái đám “ăng-ten” ra làm kiểng với phái đoàn chứ!

Nói sao thì nói, Đại Đức Thích Thiện Tấn vẫn quả quyết là sẽ có phái đoàn Liên Hiệp Quốc đến trại. Ông chỉ nhờ anh Cổn viết dùm bài trình bày và hứa sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm. Cả nể, anh Cổn nhận lời. Sau khi viết xong, anh liền trao ngay cho ông Đại Đức. Gọi là ngay nhưng cũng phải mất mấy ngày bản văn mới tới tay nhà sư vì phải thật kín đáo, qua vài trung gian để che mắt đám “ăng-ten”.

Như đã hứa, anh Cổn cũng chép cho tôi một bản. Tôi cầm nó ra giữa đồng, ngồi trên mình trâu, đọc đi đọc lại. Buồn buồn, ngày nào cũng đọc đến độ thuộc luôn.

Mấy ngày sau, Đại Đức Thích Thiện Tấn đã hoàn toàn (sở dĩ tôi dùng chữ hoàn toàn là vì, để an toàn, bản văn được ngắt làm 2, chuyển đi 2 lần cho an toàn) nhận được bản văn chống chế độ lao tù của Cộng Sản bằng Anh ngữ do anh Cổn viết. Một buổi trưa, trước khi kẻng báo nghỉ giữa ngày, tôi vào trại lãnh phần ăn trưa, nhân tiện ghé qua phòng ngủ lấy lon gô nước uống thì thấy anh Cao Hữu Hòa, cựu Thông dịch viên của Tòa Lãnh sự Mỹ ở Huế, ngoắt tôi lại nói nhỏ:

- Bọn nó gọi “moi” lên dịch một bản văn bằng Anh ngữ ra tiếng Việt. “Moi” liếc thấy nét chữ thằng Cổn. “Moi” chưa dịch gì cả thì nó bảo thôi, về đi. Đừng nói với Cổn nghe.

Nói xong anh Hòa bỏ đi ngay. Nghe vậy, mặt tôi tái mét. Bỏ mẹ, thế là bản văn chống chế độ lao tù mà anh Cổn trao cho Đại Đức Thích Thiện Tấn đã bị chúng nó chụp được. Khi nói với tôi, anh Hòa cứ nghĩ là tôi không biết gì về bản văn đó cả. Sở dĩ anh ta được kêu lên dịch vì ban giám thị nắm lý lịch, biết anh ta từng là Thông dịch viên. Về sau, anh Hòa giải thích cho tôi biết, bọn cán bộ không muốn anh dịch bản văn có lẽ vì sợ khi về đội anh sẽ tiết lộ nội dung cho các anh em khác biết. Do đó, cho tới bây giờ, anh Hòa cũng không biết trong đó viết những gì.

Khi lãnh phần ăn trưa xong, về phòng, tôi cứ đi đi lại lại, suy nghĩ thắc mắc không hiểu tại sao Đại Đức Thích Thiện Tấn lại bị bắt nhanh như vậy. Một lúc khá lâu, tôi mới sực nhớ là chưa báo cho anh Cổn biết, lật đật ra khỏi trại, đến khu đội Rau xanh tìm anh. Chưa kịp gặp, kẻng báo bãi việc đã vang lên.

Trưa đó, khi anh Cổn vừa vào trong trại định lấy gàu múc nước xuống giếng rửa ráy, lúc đi ngang cửa sổ, anh Phạm Cang, Tiểu đoàn trưởng TĐ7TQLC, ngồi trong nói vọng ra:

- Bị “chớp” rồi, bị “chớp” rồi.

Nghe thấy vậy, anh Cổn giật mình hỏi lại:

- Cả hai há, cả hai há?

- Cả hai, cả hai luôn.

Tiếng anh Cang đáp trả từ trong. Nghe được, anh Cổn hơi tái mặt. Sở dĩ anh Cang nói “cả hai luôn” là vì anh ta cũng biết hết diễn tiến câu chuyện. Anh Cổn, để phòng xa đã nghĩ ra cách chia làm 2 bản viết. Bản đầu, hơi phức tạp, giả như có bị rớt, ai lượm được, đọc lên cũng thấy vô nghĩa. Bản thứ hai là bản nguyên văn do chính nét chữ anh Cổn viết. Bởi vậy, khi nghe anh Cang nói cả hai bản đều bị tịch thu, anh Cổn cảm thấy hơi choáng váng là vì vậy. Chỉ còn nước chờ đợi cuộc đấu trí giữa anh với bọn cán bộ an ninh trại chưa biết sẽ diễn ra lúc nào đây.

Sau 3 ngày bị kêu lên làm việc, chúng đã quay anh như chong chóng, vừa đe dọa, vừa khủng bố tới tấp. Để “đáp lễ”, anh Cổn cũng không vừa. Tung hết chưởng này sang chưởng nọ khiến bọn cán bộ lâm vào hỏa mù xiểng liểng, điêu đứng. Bằng hết lý luận này đến lý luận khác, anh như một luật sư, hùng hồn bào chữa cho chính mình. Cuối cùng anh thắng và bọn giám thị chỉ buộc anh phải làm tờ kiểm điểm mà thôi.

Khi sự việc kết thúc, anh Cổn kể lại cho tôi nghe. Như đã nói ở trên, vì muốn phòng xa, anh Cổn đã chia bản văn chống đối thành hai bản, trên 2 tờ giấy khác nhau. Tờ thứ nhất, anh viết 10 dòng. Cứ một dòng, anh viết vài chữ rồi để trống một đoạn. Dòng kế tiếp cũng vậy, cho đến khi hết bản văn. Tờ thứ hai cũng thế. Chỉ có khác là, ở vị trí những chỗ trống trên bản văn của tờ thứ nhất, tờ thứ hai lại có chữ. Đại khái giống như những bài tập làm văn khi chúng ta còn học hồi nhỏ, điền vào những chỗ trống cho câu văn đầy đủ ý nghĩa và hợp lý. Anh Cổn nhờ một người thân trao cho Đại Đức Thích Thiện Tấn bản thứ nhất. Tiếp theo, anh bí mật nhờ anh Nguyễn Tri Tấn, Trung tá Trung đoàn phó TRĐ2 Bộ Binh, trao bản thứ hai. Sau khi Đại Đức Thích Thiện Tấn nhận đủ hai bản, anh yên trí và coi như xong nhiệm vụ. Nào ngờ, vài ngày sau, nhà sư nhờ người nhắn lại, ông ta đọc mà không hiểu gì hết, xin anh Cổn viết lại nguyên bản!

Khi nghe nhắn lại như vậy, anh Cổn rất bực mình. Chỉ có một bản văn điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa mà nghĩ cũng không ra thì còn làm ăn gì được! Nhưng rồi, anh cũng phải nén lòng viết lại và một lần nữa, nhờ người bí mật chuyển lại cho Đại Đức Tấn. Nhận được nguyên bản đầy đủ, Đại Đức Thích Thiện Tấn mừng rỡ vô cùng. Sáng hôm sau, đúng vào ngày thứ hai, Đại Đức Tấn giả đò khai bệnh để được ở nhà. Khi mọi người ra ngoài lao động, một mình một cõi, ông ta giở bản văn của anh Cổn ra, để trước mặt và chép lại. Anh Cổn cho biết, sở dĩ nhà sư làm như vậy vì ông ta bảo chữ anh Cổn viết hơi nhỏ nên khó đọc. Không ngờ, đang cặm cụi viết, không để ý, tên cán bộ Đính trực trại, thình lình đi ngang qua, thấy “ngài” Đại Đức đang loay hoay gò mình ghi ghi, chép chép cái gì nên tò mò vào xem. Thật đúng là đùa với lửa! Ai đời, chép một bản văn chống chế độ lao tù mà ngồi công khai, thoải mái giữa thanh thiên bạch nhật, ngay trong phòng! Nghe tiếng chân bước vào, Đại Đức Tấn hết hồn quay ra nhìn, thấy bóng dáng tên cán bộ, ông ta quơ vội mấy tờ giấy, định nhét dấu dưới chiếu nhưng không kịp nữa. tên Đính gom hết tang vật đem về ban chỉ huy trại. Thế là xong! Phái đoàn Liên Hiệp Quốc chừng nào đến thì chưa thấy, nhưng cảnh đen tối với những kẻ phạm tội thì chắc chắn sẽ diễn ra.

Bị chất vấn 3 ngày liên tục, anh Cổn rất bực bội và tức giận. Anh nói với tôi:

- Ai ngờ Thái Thanh Hùng (tên tục của Đại Đức Thích Thiện Tấn) ngơ ngơ như vậy.

Vung hai cánh tay lên xuống như để trút bớt cơn bực bội trong người, anh nói tiếp:

- Mình cứ tưởng hắn học thuộc rồi đốt ngay. Ai ngờ, giữa thanh thiên bạch nhật mà dám làm như vậy. Anh văn kém như thế mà cũng đòi làm chính trị!

Tôi bảo anh:

- Lỗi tại anh. Anh không chịu tìm hiểu thật kỹ về ông ta. Nếu biết ông ta không khá Anh văn, tại sao anh không viết luôn bằng tiếng Việt có phải hay hơn không? May mà Đại Đức Thích Thiện Tấn hành động một mình chứ nếu có một nhóm hành động, tôi “nhào vô”, chắc giờ này cũng lãnh đủ!

Nghe tôi nhắc tới bản văn bằng tiếng Việt, anh Cổn cho biết thêm. Lúc bị bắt tại trận, trong khi chờ bọn cán bộ trại kêu lên làm việc, Đại Đức Thích Thiện Tấn còn nhờ người nhắn với anh Cổn cố gắng gửi cho ông ta một bản văn bằng tiếng Việt để ông ta xem và học thuộc trước.

Lỡ phóng lao phải theo lao. Anh Cổn tức tốc viết ngay. Không làm như vậy, nếu bị bọn cán bộ chất vấn, Đại Đức Tấn không biết nội dung bản văn, chúng sẽ truy ra tác giả thật sự của nó là ai. Nếu Đại Đức Tấn nói được nội dung bản văn thì tội của anh Cổn chỉ là giúp Đại Đức Tấn dịch sang Anh ngữ mà thôi, anh không phải là người sáng tác. Chính vì thấy được tầm quan trọng và  sự cấp thiết, anh Cổn đã hoàn tất thật nhanh bản văn bằng tiếng Việt. Vấn đề còn lại là làm sao để có thể trao tận tay Đại Đức Tấn. Lúc này, đám “ăng-ten” đang dòm ngó khắp nơi. Nhất cử nhất động của anh Cổn cũng như Đại Đức Tấn đều bị chúng bám sát. Cuối cùng, anh Chung, Đại úy TQLC, đến gặp anh Cổn nói anh trao bản văn cho anh để anh chuyển lại cho Đại Đức Tấn. Anh Cổn mừng quá và trao ngay vì anh Chung cũng là người thân cùng nhóm. Nhận được bản văn, Đại Đức Tấn cũng mừng rỡ không kém, học ngày đêm liên tục. Cũng may bản văn chỉ vỏn vẹn có 7 điểm nên ông ta học thuộc cũng rất nhanh. Nhờ vậy, khi trình bày trước bọn cán bộ an ninh trại, hai người trả lời khá ăn khớp.

Sau đây là nguyên văn bản chống chế độ lao tù Cộng sản do Đại úy LLĐB Trương Thúc Cổn, viết bằng Anh ngữ trao cho Đại Đức Thích Thiện Tấn để chuẩn bị đọc khi phái đoàn Liên Hiệp Quốc đến Trại Bình Điền mà tôi đã học thuộc lòng lúc chăn trâu ngoài đồng.:

“Today, I am very glad to have a direct talk to you, representatives of the United Nations. It is a good opportunity for me to present to you some of my opinion about the present government towards the political prisoners in general and all human rights at the camp in particular. As one of the monks imprisoned at this prison because of my opposition to the regime before and also as a special secretary of the Patriarch Monk, a former leader of An Quang Buddhist congregation of South Vietnam before, I would like to present to you some of my following ideas: 

1- What you are hearing and witnessing at the camp today has been well arranged already. And thus doesn’t reflect faithfully the real situation we are living in. 

2- We are considered as malfactors, robbers, incests, immoral elements and also as guilty persons of homicide and also given the same way of treatment. 

3- We are compelled to hard labor while we are being in starvation. So, erery month, our family must bring food to feed us so that we can have enough phisical strength for forced labor. All of us are being undernourishment. Besides, we are always attacked by diseases and also given little medical care. 

4- Every year, we are provided with 2 suits that can only be used for 6 months. 

5- The present government always speaks of human policy towards the political prisoners. But is it true? No, it is not true. It is a way of speaking to bluff the public opinions. 

6- In addition to that, the present government also speaks of human rights. But how is the human rights conceived by the regime. To my way of thinking, human rights is the right to choose communist regime and not to choose non-communist regime. So there are only two choises: 

- Accepting communist regime or going to prison. 

In short, we are being in ill-treatment and the whole Vietnamese people are facing a regime based upon violenced oppression for domination. In another word, we are being in tragedy terribly. 

7- At last, I hope my direct talk to you today will help you understand better the real situation of the political prisoners at the camp we are living in and what you want to know about the Vietnamese society today. I suggest you would have an appropriate measures to prevent me from being revenged. And I would like to take this opportunity to wish you success in your mission. 

Thank you”.

Tạm dịch:

“Hôm nay tôi rất lấy làm sung sướng được nói chuyện trực tiếp với Quý Ngài, những người đại diện của Liên Hiệp Quốc. Thật là một cơ hội tốt đẹp cho tôi có thể trình bày lên Quý Ngài một vài quan niệm của tôi về sự đối xử của chính phủ hiện tại đối với các tù nhân chính trị nói chung và những quyền hành trong trại nói riêng. 

Là một trong những nhà sư bị bắt giam trong trại tù này vì chống đối chế độ cũng là một Tổng thư ký đặc biệt của Giáo Hội Tăng Già, cũng như một cựu lãnh tụ trước đây của Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang ở Việt Nam, tôi xin được phép trình bày lên Quý vị một vài ý kiến sau đây: 

1- Những gì mà Quý Ngài đang nghe và đang chứng kiến tại trại này ngày hôm nay, hoàn toàn đã được xếp đặt trước. Vì thế nó không phản ảnh hoàn cảnh trung thực mà chúng tôi đang sống. 

2- Chúng tôi bị coi như những tên lưu manh, trộm cắp, loạn luân, những phần tử thiếu đạo đức hay những kẻ có tội sát nhân và bị đối xử giống như những thành phần này. 

3- Chúng tôi bị cưỡng bức lao động trong lúc chúng tôi đang ở tình trạng đói khát. Vì vậy, hàng tháng, gia đình chúng tôi phải mang thực phẩm đến để nuôi chúng tôi ngõ hầu chúng tôi có đủ sức khỏe để thực hiện việc cưỡng bách lao động. Ngoài ra bệnh tật thường tấn công chúng tôi, nhưng vấn đề điều trị chẳng ra gì cả. 

4- Hàng năm, chúng tôi được phát 2 bộ áo quần và chỉ có thể mặc trong 6 tháng thì rách. 

5- Chính phủ hiện tại luôn luôn nói đến chính sách nhân đạo đối với tù nhân chính trị. Điều này có thật như vậy không? Xin thưa Quý Ngài là không. Đó chẳng qua là một cách nói để đánh lừa dư luận thế giới mà thôi. 

6- Thêm vào đó, chính phủ hiện tại cũng nói đến nhân quyền. Nhưng theo chế độ này, nhân quyền được quan niệm như thế nào? Theo thiển ý của tôi, nhân quyền là quyền chọn lựa chế độ Cộng sản và không có quyền chọn lựa chế độ không Cộng sản. Vì vậy có 2 sự lựa chọn: 

- Chấp nhận chế độ Cộng sản hay vào tù. 

Tóm lại, chúng tôi đang bị ngược đãi và toàn thể nhân dân Việt Nam đang phải đương đầu với một chế độ dựa vào đàn áp dã man để thống trị. Nói chung, chúng tôi đang ở trong một tình trạng thật thê thảm. 

7- Cuối cùng, tôi hy vọng rằng những lời mà tôi trực tiếp trình bày lên Quý Ngài hôm nay, sẽ giúp Quý Ngài hiểu rõ hơn về tình trạng thật sự của tù nhân chính trị ở tại trại và những gì Quý Ngài muốn biết về xã hội Việt Nam ngày hôm nay. Tôi xin đề nghị Quý Ngài nên có một biện pháp thích nghi để bảo vệ tôi khỏi bị trả thù. Và nhân cơ hội này, tôi kính chúc Quý Ngài thành công trên bước đường phục vụ sứ mệnh. 

Cám ơn Quý Ngài”.

Đại Đức Tấn trình bày nội dung 7 điểm giống hệt như những gì anh Trương Thúc Cổn đã viết. Vì vậy bọn cán bộ không nghi ngờ bản văn này do chính anh suy nghĩ soạn ra mà chỉ cho rằng anh dịch lại những gì Đại Đức Tấn nhờ. Nhờ vậy, anh Cổn chỉ bị chúng bắt làm kiểm điểm mà thôi. Tuy vậy, trong 3 ngày bị kêu lên làm việc, chúng đã vặn vẹo, tra hỏi, trấn áp anh không chút nương tay! Tên Phố, cán bộ giám thị phó của trại, đã nhiều lần hét ra lửa trước mặt anh Cổn, hy vọng anh nhận mình là tác giả, nhưng kết quả cuối cùng không như chúng muốn. Tên Phố chỉ còn cách dằn mặt:

- Anh có biết làm như vậy là phạm nội quy không?

Anh Cổn ôn tồn trả lời:

- Tôi biết, nhưng anh Tấn năn nỉ tôi nhiều lần quá. Chỗ bà con quen biết, tôi cầm lòng không đậu nên đành phải dịch cho anh ấy.

Tên Phố vin vào câu này, vặn anh:

- Như vậy, anh biết là vi phạm nội quy rõ ràng mà vẫn ngoan cố cứ làm phải không?

Anh Cổn đáp:

- Như tôi đã nói với cán bộ. Một bên tình cảm, một bên nội quy, tôi xin nhận là đã quá mềm lòng, đặt tình cảm lên trên. Tôi xin nhận trách nhiệm về việc dịch sang tiếng Anh bản văn này.

Sau đó tên Phố còn hỏi anh Cổn về việc người bạn gái lên thăm anh khi nào. Anh Cổn cho biết, chị có lên thăm anh một đôi lần dạo trước, nhưng lâu nay không còn lên nữa. Nó thở phào nhẹ nhõm. Có lẽ nó sợ, nếu chị còn lên thăm gặp anh Cổn, chuyện này có thể lan truyền về thành phố, dân chúng biết được sẽ ảnh hưởng bất lợi cho bọn chúng chăng? Phần Đại Đức Tấn, được bọn giám thị trại cho phép chữa bệnh trước khi đưa vào giam trong nhà kỷ luật 6 tháng.

Khi nghe tin này, anh Cổn đến gặp tôi và nói ngay:

- Thế là bản văn vừa rồi đã có tác dụng. Trước khi xảy ra vụ này, Thái Thanh Hùng từng xin ban giám thi trại chữa cơn bệnh ngặt nghèo của mình. Muốn chữa, cần phải giải phẫu nên ban giám thị đã từ chối, nhất định không cho. Bây giờ chúng bằng lòng, phải chăng đó là tác dụng của cái bản văn?

Anh Cổn vừa nói vừa cười, tỏ vẻ khoái chí. Sau cơn sóng gió ba đào, hai đứa ngồi ôn chuyện cũ, chợt nhớ đến vụ “phái đoàn Liên Hiệp Quốc”, tôi hỏi anh Cổn:

- Không biết lấy tin tức ở đâu mà Đại Đức Tấn quả quyết là có phái đoàn Liên Hiệp Quốc sẽ đến trại! Rốt cuộc có thấy ma nào đâu.

- Có lẽ mấy tên đệ tử của Thái Thanh Hùng lên thăm nuôi cho hay. Cũng có thể bọn Hà Nội đã dẫn phái đoàn đến một trại nào đó ngoài Bắc trên vùng Sơn Tây hay Cao Bắc Lạng không chừng.

Từ ngày ở đội Rau xanh, anh Cổn gặp không biết bao nhiêu là rắc rối đến mất ăn mất ngủ, bị đe dọa khủng bố liên tục. Tuy nhiên chúng tôi vẫn thường xuyên gặp gỡ và trao đổi những tin tức nhận được. Nhờ những tin tức ở ngoài vào, chúng tôi lên tinh thần rất nhiều. Có những tin tức làm anh em trong trại nức lòng. Tôi nhớ, khoảng năm 1981, 1982 gì đó, có lần đang nằm đọc sách Đông y, chừng 7 giờ tối, anh Cổn đến bên tôi nói nhỏ:

- Mình mới nhận được một tin ngon lành.

Tôi bật dậy hỏi ngay:

- Tin gì mà hấp dẫn vậy?

Anh đáp:

- Tụi mình sẽ được đi Mỹ trong năm nay.

- Có thật không? Tin từ đâu vậy?

Tôi mừng quýnh quáng hỏi. Anh Cổn trả lời:

- Chú anh Thống vừa gửi thư lên cho anh ấy biết. Hôm chủ nhật vừa rồi, sau khi ra gặp thân nhân, vác bao gạo vào trại, mở bao gạo, mò trong đó, anh Thống thấy một mảnh giấy có cái tin này. Đọc xong, mừng quá, anh chạy sang báo cho mình hay.

Tò mò vì muốn xác thực, tôi hỏi tiếp:

- Mảnh giấy đó đâu rồi, cho tôi xem với nào.

- Anh Thống đang giữ. Nội dung bức thư được viết bằng tiếng Pháp. Chỉ có mấy câu thôi nên mình đã thuộc lòng. Để mình viết ra cho mà nghiên cứu.

Nghe nói thế, tôi liền lấy một miếng giấy và cây viết trao cho anh Cổn. Chỉ trong ít phút, anh đưa lại cho tôi tờ giấy với những dòng chữ như sau:

“Cher Thong, 

Selon la radio occidentale je te done quelques renseignements ci-dessous: 

- Une même solution sera appliquée pour toute I’S sous covert de l’UNO. 

- D’ici jusquà la fin d’année, tu sera certainement expulsé du pays. 

Je te souhaite une bonne santé pour avoir un retour Odyssé et prodigieux.”

Tạm dịch:

“Thống thân, 

Theo đài phát thanh Tây phương, chú cho cháu biết mấy tin sau đây: 

- Sẽ có một giải pháp cho toàn cõi Đông Dương dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. 

- Từ đây đến cuối năm, chắc chắn cháu sẽ bị trục xuất ra khỏi nước. 

Chú chúc cháu được sức khỏe để có ngày trở lại mang tính anh hùng ca Odyssé huyền diệu”.

Đọc xong, tôi không nén được mừng rỡ, vừa chụp tay anh Cổn lắc qua lắc lại, vừa lẩm bẩm “ngon lành, ngon lành”.

Chiều hôm ấy, thấy anh Thống vừa từ bếp đi lên, tôi đưa ngón tay cái lên xuống trước mặt tôi, vừa nhìn anh, vừa cười như có ý khen anh đã đem đến cho anh em một cái tin “số một” (number one). Thấy vậy, anh Thống cũng gật gật cái đầu cười theo, vì đoán rằng anh Cổn đã cho tôi biết nguồn tin. Sau đó tin này được loan truyền khắp trại, ai nấy đều cảm thấy phấn khởi. Dĩ nhiên, mỗi lần tung bất cứ một tin gì, chúng tôi phải giữ kín tên người cung cấp. Vì nếu mấy tên “ăng-ten” biết được, người cung cấp sẽ bị liên lụy. Với những anh em thân cận trong nhóm, tin tưởng nhau rồi, mỗi khi có tin gì mới, chúng tôi thường nói tên người cung cấp để cùng nhau ngồi lại, phân tích, đánh giá, để quyết định mức độ quan trọng của nó, xem có nên phổ biến hay không.

Chẳng hạn, năm 1984, anh Vệ báo cho tôi biết một tin quan trọng, chúng tôi sẽ được “cách mạng” tiêm thuốc bổ vào cơ thể trước khi rời Việt Nam đi Mỹ. Chúng nói là thuốc bổ nhưng sự thực trong đó có độc dược làm hủy hoại hệ thần kinh trong tương lai. Sau khi báo cho tôi biết, anh Vệ dặn tuyệt đối không được nói lại cho ai biết. Với cái tin động trời này, làm sao tôi có thể giữ kín một mình không báo cho bạn bè biết để họ đề phòng. Muốn kiểm soát, tôi hỏi anh Vệ:

- Ai nói với Vệ tin này vậy?

- Trước khi được trả tự do, anh Hòa nói cho mình biết. Anh Vệ trả lời.

Tối hôm đó có tin đồn, ngày mai sẽ có đợt phóng thích. Điều này khiến tôi phải suy nghĩ. Nếu như tôi là người may mắn có tên trong danh sách được thả ngày mai thì làm sao anh em còn lại tại trại biết mà đề phòng cái vụ tiêm thuốc, nếu tin này là thật! Tôi quyết định tìm anh Cát và anh Cổn cho  hai anh nầy biết. Không hiểu sao, tối hôm đó, anh em trong đội cũng ngồi tụ lại từng nhóm chỗ hai, chỗ ba người, to nhỏ bàn tán. Có lẽ họ đang đoán về việc ngày mai ai sẽ được thả trong đợt phóng thích này. Khi gần đến chỗ hai anh nằm, tôi chợt thấy hai thằng “ăng-ten” cứ nhìn vào chỗ các anh thì thầm to nhỏ gì đó. Thấy không tiện, tôi về lại chỗ mình nằm, lấy tờ giấy viết vài dòng chữ bằng tiếng Anh, xếp gọn lại trong lòng bàn tay. Xong xuôi, tôi bước đến chỗ 2 anh nằm, giả đò mượn cái lược. Lúc cúi lấy cái lược, tôi thả tờ giấy xuống chiếu trước mặt anh Cổn và anh Cát. Nội dung tôi viết:

“Before expelling us from VN, Communist will ‘invigorate’ us by a kind of vitamin. This is a kind of real vitamin but it can destroy our brain in future. So, I inform you for prevention. However, willy-nilly, we shall rescue our friends in the camp in good time when they prepare to do it. As for right now, would you please don’t disclose this news to anyone, even your close friends, because it is very dangerous. Burn it immedately after reading”.

Tạm dịch:

“Trước khi trục xuất chúng ta ra khỏi Việt Nam, Cộng sản sẽ bồi dưỡng cho chúng ta một loại thuốc bổ. Đây là một loại thuốc bổ thật sự nhưng nó có thể hủy hoại bộ óc chúng ta trong tương lai. Vậy tôi báo cho anh đề phòng. Tuy nhiên, dù muốn dù không, chúng ta cũng sẽ cứu bạn bè chúng ta trong trại đúng lúc, khi chúng chuẩn bị hành động. Còn ngay bây giờ, mong anh đừng tiết lộ tin này cho bất cứ ai, kể cả bạn thân của anh, bởi vì rất nguy hiểm. Đọc xong đốt ngay”.

Lúc đó tôi thấy anh Cát đang loay hoay viết gì đó nên anh Cổn lấy tờ giấy lên đọc. Đọc xong, anh Cổn xuống ngay tầng dưới. Khi đi ngang chỗ tôi, anh ngoắt tôi ra cửa và hỏi:

- Tin ở đâu vậy?

Tôi nói liền:

- Vệ vừa nói cho mình biết. Vệ bảo trước khi về, Hòa nói lại.

- Không đến nỗi vậy đâu.

Anh Cổn phán đoán. Tôi liền tiếp:

- Cũng có thể không đến nỗi như thế. Nhưng phòng bệnh vẫn hơn chữa bệnh. Anh Cát đã đọc chưa?

- Để mình nói lại cũng được.

Anh Cổn đáp. Tôi hỏi tiếp:

- Đã đốt tờ giấy chưa?

- Mình đã đốt nó trong nhà cầu trước khi ra đây gặp Điền.Anh Cổn trả lời.

 Hèn gì lúc anh ngoắt tôi, chuẩn bị đi theo thì anh lại đi về phía nhà cầu. Tôi chưa biết thế nào, đang thập thò trước cửa một lúc anh mới quay trở lại.

Sau này, khi vào Sàigòn để nộp đơn qua Thái Lan, tôi có ghé anh Hòa chơi. Tôi thắc mắc, nhắc lại vụ tiêm “thuốc bổ”, anh Hòa cho biết bọn Cộng sản muốn tiêm thuốc cho đám tù nhân trước khi rời trại chứ không phải trước khi đi Mỹ. Còn nguồn tin từ đâu, tôi lại quên mất không hỏi tới.

Trở lại vấn đề những người bạn thân trong trại tù cải tạo, như tôi đã đề cập ở trên, ngoài anh Trần Văn Cát, anh Trương Thúc Cổn cũng là một trong những người bạn chí cốt, sống với tôi như anh em trong gia đình. Tôi quen với anh chừng một năm thì anh nhận được một tin như sét đánh: thân mẫu anh qua đời tại quê nhà.

Thật tội nghiệp, lúc anh bị bắt đi “cải tạo”, ở quê nhà, chỉ còn hai bố mẹ anh sống với nhau trong một túp lều tranh, tại một vùng quê hẻo lánh thuộc tỉnh Quảng Trị. Hai ông bà, tuổi đã già, không ai chăm sóc, nương tựa nhau mà sống, chờ đợi thằng con đi tù, mòn mỏi 9, 10 năm vẫn không thấy về. Phần tuổi già, phần ăn uống quá thiếu thốn, mẹ anh Cổn lâm trọng bệnh rồi qua đời. Nghe tin mẹ mất, anh Cổn quá xúc động, buồn bã không nguôi. Sau đó, anh sáng tác một bài thơ mang tựa đề “Nhớ mẹ” rồi tặng cho tôi. Kèm theo bài thơ, có một câu tiếng Pháp của Anatole France như sau: 

“Il y a bien des merveilles dans la nature, mais la plus précieuse c’est le coeur d’une mère”.

Tạm dịch:

“Có rất nhiều cái đẹp trong thiên nhiên, nhưng cái đẹp quý giá nhất là trái tim người mẹ”. 

Sau đây là bài thơ “Nhớ mẹ”:

                 NHỚ MẸ

Con biết ngày nay mẹ khổ nhiều

Những ngày quạnh quẽ vắng con yêu

Bâng khuâng mẹ nhớ con ngàn dặm

Tựa cửa mắt mờ gió hắt hiu. 

                             ***

Mẹ ơi có thấu nỗi lòng con

Nhớ mẹ lòng con hóa mỏi mòn

Con cố tìm trong tình mẫu tử

Những lời an ủi trái tim con 

                             ***

Nhớ túp lều tranh dưới khói mờ

Bên đường khóm trúc gió phất phơ

Tim con ray rứt đời phiêu bạt

Nhớ mẹ lòng con hóa vẩn vơ 

                             ***

Những lời vàng ngọc mẹ khuyên con

Nước đó nhà đây mãi vẫn còn

Đại nghĩa con luôn cùng nghĩa vụ

Dãi dầu sương gió chút lòng son 

                             ***

Chân mãi bước lên miệng vẫn cười

Con đầy hy vọng cuộc đời tươi

Mong sao xứng đáng người con mẹ

Quên hết đau thương của cuộc đời 

 Trương Thúc Cổn

Sáng ngày 15 tháng 1 năm 1985, như thường lệ, tôi và anh Cổn theo đội ra hội trường nghe đọc báo. Sau khi anh em đã ngồi vào chỗ xong xuôi, một tên cán bộ trại xuất hiện, bước lên sân khấu với dáng điệu trịnh trọng khác thường. Nó đằng hắng, làm vẻ quan trọng và tuyên bố lớn, không quên kèm theo một số giáo điều:

- Các anh chú ý. Sáng nay, chúng tôi đọc danh sách một số anh được “cách mạng khoan hồng” phóng thích vì đã tỏ ra có thành tích “tiến bộ”, qua “lao động tốt”, “học tập tốt”. Những anh chưa có tên đợt này, cần bắt chước noi theo để sớm được về đoàn tụ với gia đình.

Toàn thể hội trường bỗng nhiên im phăng phắc. Thay vì đọc báo, tên cán bộ bắt đầu đọc tên những người được thả.

Tôi ngồi nghe mà lòng chẳng thấy hồi hộp gì cả. Tôi nghĩ, có lẽ nhiều người khác, tâm trạng cũng giống tôi. Mấy tuần trước đã có tin đồn, Mỹ sẽ bốc anh em tù ngay tại trại để đưa sang Hoa Kỳ. Vì vậy, anh em cảm thấy nửa buồn nửa vui. Vui vì được về với gia đình sau 10 năm xa cách, không còn bị hành hạ khổ ải trong lao tù “cải tạo” nữa. Buồn vì mất đi cơ hội ngàn năm một thuở được đi Mỹ. Trên bục, tên cán bộ vẫn tiếp tục đọc tên. Được chừng 5, 7 tên gì nữa, hết trang, nó lật sang mặt sau và xướng:

- Anh Dương Viết Điền.

Hơi bất ngờ, tôi la một tiếng “có” rồi đứng dậy, bắt tay tạm biệt anh Cổn đang ngồi phía bên trái, từ giã anh Thống phía bên phải, xong, bước ra xếp hàng sau những anh vừa được gọi trước, chờ làm thủ tục ra trại. Từ đó, anh Cổn và tôi xa nhau.

Tuy nhiên sau này, khi trở lại quê nhà, tôi vẫn thường xuyên gửi thư lên thăm hỏi sức khỏe các anh Cổn, Cát và Trần Viết Hòa. Nếu săn được tin tức gì quan trọng, tôi dùng đường dây bí mật để chuyển đến họ chứ không qua bưu điện. Trong những lá thư, thỉnh thoảng tôi có xen vào mấy câu thơ trong truyện Kiều để nói bóng gió điều gì quan trọng không thể bạch văn mà tôi tin anh Côn thừa sức để hiểu. Từng là giáo sư Việt văn, chuyên dạy truyện Kiều, nếu tôi không lầm, có lẽ anh thuộc lòng đến 98% các câu thơ trong toàn bộ truyện Kiều của Nguyễn Du thì phải.

Sau khi về nhà được 2 tháng, tôi gửi cho anh Cổn một lá thư. Ngoài những câu thăm hỏi sức khỏe, tôi có trích dẫn một đoạn thơ trong truyện Kiều thế này:

“Ông tơ ghét bỏ chi nhau

Chưa vui xum họp đã sầu chia phôi

Cùng nhau trót đã nặng lời

Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ

Quản bao tháng đợi năm chờ

Nhớ người ăn gió nằm mưa xót thầm

Đã nguyền hai chữ đồng tâm

Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai

Còn non còn nước còn dài

Còn về còn nhớ đến người hôm nay”.

Thêm vài câu vô thưởng vô phạt nữa, tôi lại chêm vào 2 câu thơ khác: 

“Gìn vàng giữ ngọc cho hay

Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời”.

Nhận được thư, anh Cổn liền hồi âm cho tôi. Vì sợ trại kiểm duyệt nên anh chỉ viết vài câu thăm hỏi để báo cho biết đã nhận được thư tôi.

Tháng 9 năm 1985, nhân đọc tạp chí Newtimes, do Nga Sô xuất bản, hình như số 38, có đề cập đến Tướng Nguyễn Cao Kỳ, và một bài đề cập đến cuộc họp thượng đỉnh giữa 2 vị nguyên thủy quốc gia Hoa Kỳ và Liên Sô, nhận thấy có vài điều quan trọng, tôi gửi ngay thư báo cho anh biết. Tôi xé những trang có các bài báo đó, chia làm hai gói, đổ một lon ớt bột vào một gói, một lon đường cát vào một gói khác, rồi cuộn nhỏ lại. Viết thêm mấy dòng chữ bằng tiếng Anh, tôi xếp nhỏ, bỏ vào đáy bên trong gói thuốc lá Đà Lạt. Tất cả, tôi để hết vào một bao ny-lông, thêm một ít quà lặt vặt nữa, gói lại. Xong xuôi, tôi đến nhà anh Lô (anh em chú bác với anh Cát), gần chùa Diệu Đế, nhờ mang gói quà lên trại cho anh khi đi thăm nuôi. Anh Lô bảo, kỳ này mắc công chuyện không thể đi nên người cháu đi thế. Tôi phải tìm đến người cháu này nhờ đem giúp và dặn nhớ kín đáo cho anh Cát biết có lá thư giấu dưới đáy gói thuốc Đà Lạt. Nội dung đoạn văn trong tạp chí Newtimes số 38 như sau: 

“In the same way, with the wake of Senate, the House of representative voted publicy 10 milion dollars to the Kampuchea anti-government gangs, a sum that will cover 2 years of subversive activities against the young republic. This has encouraged Nguyen Cao Ky, Vice President of Saigon regime before and now a shopkeeper in a suburb of Washington, to demand a resistance-mouvement organized and an invasion army sent to Vietnam”.

Y. GUKOV (page 9).

Tạm dịch:

“Cũng trong chiều hướng đó và noi gương theo Thượng viện, Hạ viện đã bỏ phiếu công khai chấp thuận 10 triệu đô-la cho những nhóm chống chính phủ tại Kampuchea, một số ngân khoản có thể yểm trợ trong 2 năm, cho các hoạt động khuynh đảo chống lại nước Cộng Hòa còn non trẻ này. Điều này đã khuyến khích Nguyễn Cao Kỳ, cựu Phó Tổng Thống của chế độ Sàigòn trước đây và nay là một chủ tiệm ở ngoại ô thuộc tiểu bang Washington, đòi hỏi tổ chức gấp một phong trào kháng chiến và gửi ngay một đội quân xâm nhập vào Việt Nam”.

Về là thư, tôi viết như sau:
“ Dear C, C, H. 

For tactic, it is very not bright. But for strategy, it is very good R is shaking with Rch. W is worrying and wants to have normal relation with A. Negotiation has been going on publicly and secretly. The day of departure has not been disclosed yet. Anyway, I hope you will become an Ulysee in the Odyssey of Greek mythology. By what cost it may, you must try to keep your will firm. 

Affectionately”.

Tạm dịch:

Các anh Cổn, Cát, Hòa, thân mến. 

Về mặt chiến thuật, chẳng có gì sáng sủa cả. Nhưng về chiến lược thì rất tốt. Nga Sô đang bắt tay với Trung Cộng. Việt Nam đang lo lắng và muốn quan hệ bình thường với Mỹ. Cuộc thương thuyết đang diễn ra, khi công khai, khi bí mật. Ngày lên đường chưa được tiết lộ. Tuy nhiên, tôi hy vọng, các anh sẽ trở thành Ulysee, như trong bản trường ca Odyssey của thần thoại Hy Lạp. Bằng bất cứ giá nào, các anh cũng phải giữ vững ý chí của mình. 

Thân ái”.

Đến tháng 7 năm 1986, tôi lại gửi tiếp cho anh Cổn một lá thư sau khi thấy tình hình rất sáng sủa. Qua lá thư gửi công khai bằng đường bưu điện, ngoài những lời thăm hỏi mào đầu, những câu chuyện vô thưởng vô phạt nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của bọn cán bộ kiểm duyệt, tôi dẫn kèm một đoạn thơ Kiều như sau:

“Như nàng lấy hiếu làm trinh

Bụi nào cho đục được mình ấy vay

Trời còn để có hôm nay

Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời

Trăng tàn mà lại thêm tươi

Hoa tàn mà lại hơn mười năm xưa”.

Thế rồi vào tháng 9 năm 1986, khi đọc bản thông cáo chung của Sở Ngoại Vụ với đầy đủ chi tiết về việc đi Mỹ cho tất cả những người từng bị đi “học tập cải tạo”, tôi liền viết thư cho anh Cổn để báo tin vui. Dù rằng vào giai đoạn này, anh em cũng đã nghe tin đó từ lâu, nhưng khi chìm, lúc nổi, không mấy gì làm chắc.

Thư và quà tôi đã gói sẵn, chỉ chờ có người đi thăm là gửi. Nghe vợ tôi nói có chị Ái ngoài cửa Chánh Tây sắp lên thăm chồng, tôi xách bao quà ghé nhà chị ngay. Tôi nhờ chị dặn chồng trao quà lại cho anh Cổn, nhắn anh đừng vất bao thuốc sau khi hút xong. Chỉ nói bóng gió thế nhưng chị Ái hiểu ngay. Chị bảo tôi cứ yên tâm, chị sẽ nói lại với chồng những gì tôi dặn. Cám ơn chị, tôi ra về.

Cái thư đó, tôi viết như sau:

“Dear Con, Cat, Hoa, 

I myself read the joint communique at the foreign affair service in Saigon. Our dream has become true at 100%. The procedure of departure is very complex. The day of departure has not been disclosed yet. May be you will depart in advance. As for my fate, it is very tragic. Perhaps it can take me 1, 2, 3, 4 or more years to begin. Anyway, I wish your departure would come as quick as possible so that you can realize your Odyssey dream cherished by you for a very long time. 

Affectionately”.

Tạm dịch:

“Các anh Cổn, Cát, Hòa thân. 

Chính tôi đã đọc bản thông cáo chung tại Sở Ngoại Vụ ở Sàigòn. Giấc mơ của chúng ta đã trở thành sự thật 100%. Thủ tục ra đi rất phức tạp. Ngày khởi hành vẫn chưa được tiết lộ. Có lẽ các anh sẽ đi trước. Riêng số phận tôi thật là bi thảm. Có thể sẽ mất 1, 2, 3, 4 hoặc nhiều năm hơn nữa mới bắt đầu lên đường . Dầu sao đi nữa, tôi cũng ước mơ rằng, ngày lên đường của các anh đến càng nhanh càng tốt, ngõ hầu các anh có thể thực hiện được giấc mộng Odyssey mà các anh đã ấp ủ từ lâu. 

Thân ái”.

Sở dĩ trong lá thư tôi viết, các anh ấy hy vọng được đi trước, vì ngay tại Huế cũng như ở Sàigòn, có nguồn tin đồn là những người còn đang ở trong các trại tù cải tạo sẽ được ưu tiên; những người đã ra khỏi trại, phải nộp đơn xin để được cứu xét và sẽ đi sau.

Tới tháng 11 năm 1987, tình hình như không có vẻ tiến triển vì 2 phía chính phủ Việt và Mỹ bất đồng ý kiến gì đó. Các cuộc họp phải hoãn đi hoãn lại nhiều lần. Dù tình hình có vẻ sáng sủa hơn một chút cho việc ra đi, nhưng thời gian vẫn là vấn đề chưa thể tiên đoán chắc chắn. Để an ủi các anh không nản lòng, thời gian của họ trong trại đã quá lâu, sang năm thứ 13 rồi, tôi viết thêm một lá thư nữa: 

“Dear Con, Cat. 

You have suffered a serious loss for over 12 years in prison. But I believe that with your very strong will, you will continue to pass easily the hardship remained. It is cock sure that you will leave prison for U.S.A. in a near future. Calm yourself and wait. 

U.S.A. has taken out 300 million dollars to pay damages for war. So Communist has been completely satisfied and pleased for all the conditions brought up by U.S.A. Future is very bright. 

I wish you everything as you wish it to be. 

Good luck! Bon voyage! 

P.S: From “the new economical zone”, Tran Viet Hoa wrote me a letter and please reminded him kindly to you: Cat, Tan, Cang, Lien, Hoa, Thien etc… 

Affectionately”.

Tạm dịch:

Các anh Cổn, Cát, thân. 

Các anh đã chịu gian khổ trên 12 năm trong tù. Nhưng tôi tin rằng với ý chí vững mạnh sẵn có, các anh sẽ tiếp tục vượt qua những gian truân còn lại một cách dễ dàng. Chắc chắn như đinh đóng cột các anh sẽ rời khỏi nhà tù để sang Hoa Kỳ trong một tương lai rất gần. Hãy bình tĩnh và chờ đợi! 

Hoa Kỳ đã tháo khoán 300 triệu đô-la để bồi thường chiến tranh. Vì vậy Cộng Sản rất thỏa mãn và bằng lòng tất cả các điều kiện phía Hoa Kỳ đưa ra. Tường lai rất sáng lạng. 

Tôi chúc các anh mọi sự như ý. 

Chúc may mắn! Thượng lộ bình an!

Tái bút: Từ “vùng kinh tế mới”, Trần Viết Hòa đã viết thư cho tôi và nhờ chuyển lời thăm hỏi đến các anh Cát, Tấn, Cang, Liễn, Hòa, Thiện v.v… 

Thân ái”.

(Phần tái bút tôi có nhắc đến anh Trần Viết Hòa. Anh đã được trả tự do sau tôi một thời gian. Về nhà, anh đã tìm cách vượt biên và tới được Phi Luật Tân. Trong thư tôi phải nói mánh là đi “vùng kinh tế mới”).

Viết xong lá thư, tôi cất kỹ vào trong tủ, chờ mua bao thuốc lá Đà Lạt về sẽ bỏ vào như mấy lần trước, chuẩn bị gửi cho anh Cát và anh Cổn.

Vào một buổi chiều, lúc đó khoảng 5 giờ, tôi đang nấu cơm trong bếp , nghe văng vẳng có tiếng ai nói chuyện ngoài cửa ngõ. Nhìn ra, tôi thấy một người mặc quần áo “cải tạo” đang đứng nói chuyện với một anh xe đạp thồ. Thấy thế, tôi chạy ra xem thử. Người mặc áo “cải tạo” chính là anh Trương Thúc Cổn, đang lù lù trước mặt. Tôi mừng rỡ bay lại anh. Hai anh em ôm chầm lấy nhau, mừng mừng tủi tủi. Thì ra anh vừa được phóng thích. Đón xe về tới Huế, anh thuê xe đạp thồ chạy lại nhà tôi ngay. Tôi mời anh ở lại vài ngày và tối đó, anh em tha hồ tâm sự cho bõ những ngày xa cách.

Đêm hôm đó tôi hỏi:

- Thế anh có nhận được mấy lá thư tôi gởi không?

Anh đáp:

- Có, lá thư có mấy câu thơ truyện Kiều.

Tôi hỏi lại:

- Tất cả mấy lá?

- Chỉ có một cái thư đó thôi!

Anh nhấn mạnh. Tôi hơi thắc mắc:

- Vậy cái thư thứ hai, cũng có mấy câu thơ Kiều, anh không nhận được ư?

Anh ngạc nhiên nhưng quả quyết:

- Không, chỉ có một lá thôi!

Ngưng một chút như sực nhớ ra điều gì, anh tiếp:

- À, thằng cán bộ Cúc, lúc trao thư cho mình có nói, không biết sao anh Điền này chuyên viết thư bằng truyện Kiều vậy há. Mình giải thích cho nó, tại mình từng là giáo sư Việt văn nên Điền nghĩ là mình thích, mới viết kiểu này cho mình vui. Có lẽ nó không tin, chắc nó biết Điền có ẩn ý gì đó nên lá thứ hai nó đã giữ lại.

Thấy vậy tôi hỏi tiếp:

- Còn mấy lá thư, tôi viết bỏ trong bao thuốc Đà Lạt anh có nhận được không?

- Không thấy. Mình không biết Điền bỏ thư trong đó nên hút xong mình vất bỏ bao thuốc luôn.

Nghe anh trả lời thế tôi tức anh ách. Tôi bảo:

- Nghĩ mà tức đời! Mình đã dặn cháu anh Cát, chị vợ anh Ái kỹ như vậy mà họ cũng quên. Thật là tốn công vô ích.

Như chợt nhớ lại, anh Cổn bỗng la lên:

- À, mà có! Có một bản thông cáo chung của Reagan và Gorbachov dài dằng dặc, mình ăn hết gói đường hay gói ớt gì đó, tò mò giở ra đọc mới thấy. Mình đã đọc sau đó học thuộc lòng.

Tôi thở dài vì sự vô tâm của anh:

- Tờ đó tôi gói ớt bột. Cái tờ tôi gói đường cát, có lẽ đã bị ướt, chữ nhòe mất nên anh không để ý.

Sau đó, tôi lấy tất cả những bản đã sao chép còn lưu giữ đưa cho anh đọc và nói:

- Nếu các anh đừng vất mấy bao thuốc Đà Lạt thì có lẽ đã biết được một vài tin tức quan trọng, cũng đỡ buồn trong thời gian còn lại trong tù.

Sáng hôm sau, tôi lấy xe đạp, chở anh Cổn đi khắp thành phố Huế cho anh nhìn lại cảnh cũ người xưa, nhìn lại cầu Trường Tiền 6 vài, 12 nhịp, nhìn lại sông Hương với dòng nước đang uốn khúc quanh co giữa nắng chiều. Trên không, một bầu trời xanh ngát với những đám mây trắng, đang lững thững trôi về một phương xa thẳm theo từng cơn gió nhẹ thổi qua.

Tương lai chúng tôi, những người tù, vừa thoát cái lồng giam cầm nhỏ bé, trại “cải tạo”, tưởng được hưởng chút không khí tự do. Đâu ngờ, cái xã hội bên ngoài cũng chỉ là cái nhà tù lớn hơn! Chúng tôi vẫn không có được những quyền căn bản nhất của một con người. Những người dân tội nghiệp, bị phân biệt đối xử chỉ vì quá khứ bản thân, không thể tìm cho mình một cuộc sống ổn định trên chính nơi mình được sinh ra và lớn lên, trưởng thành!

Con đường chúng tôi đi, nhất định chưa ngừng lại ở đây. Cuộc đấu tranh vì lý tưởng tự do sẽ vẫn còn tiếp tục.

(Trích từ tác phẩm Trại Ái Tử và Bình Điền xuất bản năm 1993, tái bản năm 2003)

Dương viết Điền