Mặt trời lên cao ngang các ngọn thông già, nắng ban mai mát dịu, những áng mây như dải lụa trắng lơ lững trên bầu trời trong xanh, các vòi nước tự động thỉnh thoảng phun lên những vệt nước trắng , rơi đều trên cỏ xanh mịn như tấm thảm trải dài. Hoa hồng, hoa cẩm chướng , lung lay qua từng cơn gió nhẹ, những đàn chim màu đen mỏ vàng nho nhỏ hót líu lo trên cành phượng nhiều hoa. Lâu lắm mới thấy lại phượng vĩ nở hoa đỏ, che kín khoảng sân nhỏ của Hotel ở Mallorca ngoài khơi Tây Ban Nha, tôi nhặt vài cánh phượng, đưa cho các con, kể lại thời học trò nhiều kỷ niệm về mùa hè. Các nữ sinh Việt Nam hay ép hoa phượng vào lưu bút, trao tay viết tạm biệt trong 3 tháng hè, về cùng quê Nội hay Ngoại yên tĩnh vui sống với cảnh thiên nhiên hoa cỏ. “ Sung sướng quá giờ cuối cùng đã đến / Đàn trai non hớn hở rủ nhau về / Chín mươi ngày nhảy nhót ở miền quê / Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ “ ( Xuân Tâm ).
Có thể khí hậu miền nhiệt đới, mùa hạ nóng nên học sinh nghỉ hè 3 tháng, nhưng các quốc gia Âu Châu nghỉ 6 tuần lễ, ở Đức khí hậu lạnh, nắng ấm rất ít nên hè về mọi người thường đi nghỉ, tắm biển các vùng biển Địa Trung Hải.
Mùa hè ở miền Trung trời nóng như lửa đổ, cỏ bị cháy vàng, những cánh đồng lúa khô nứt nẻ, các dòng sông cạn nước, để lộ những nông cát trắng phau, những hàng phượng vĩ nở đỏ một khung trời.
Trưa hè ở Đà Nẵng im lặng trên đường Thống Nhất đến Cầu Vồng nhiều cây cao bóng mát, nhiều ve sầu kêu suốt ngày đêm, thỉnh thoảng vài ba con chim đi kiếm mồi làm ngưng tiếng ve hát. Tuổi học trò mộng mơ, nhạc phẩm bất hủ “ Nỗi buồn hoa phượng “ đã làm rung động, nỗi lòng buồn man mác lúc chia tay mỗi người một phương trời xa...
“ Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn, chín mươi ngày qua chứa chang tình thương, ngày mai xa cách hai đứa hai nơi, phút gần gủi nhau mất rồi, tạ từ là hết người ơi ! Tiếng ve nức nở buồn hơn tiếng lòng, biết ai còn nhớ đến ân tình sâu, trường xưa in bóng hai đứa nay đâu ?...Nếu ai đã từng nhặt hoa thấy buồn, cảm thông được nỗi vắng xa người thương, màu hoa phượng thắm như máu con tim, mỗi lần hè thêm kỷ niệm , người xưa biết đâu mà tìm ...” ( không nhớ tên và tác giả bản nhạc ).
Tại hải ngoại tuổi học trò không có kỷ niệm như lứa tuổi chúng ta trưởng thành bên quê nhà. Nam sinh mặc đồng phục quần xanh áo trắng, tóc phải hớt gọn gàng. Nữ sinh áo dài trắng. Thời gian trôi qua, kỷ niệm của tôi và các bạn xuất thân từ ngôi trường thân yêu đó chỉ còn lại trong ký ức. Người bạn gởi tặng hình trường Phan Châu Trinh, kỷ niệm 50 năm thành lập và sinh nhật thứ 130 của cụ Phan Châu Trinh, nhà cách mạng quê hương xứ Quảng. Thời gian trôi qua 32 năm, các cây phượng trong sân trường có tàng lá xanh nở nhiều hoa, nay có lẽ đã già. Bức tượng bán thân bằng đồng sơn đen của cụ Phan Châu Trinh bên cột cờ tồn tại với thời gian , cùng với lòng tôn kính của mọi người. Trường đã đào tạo nhiều thế hệ tài năng giúp đời. Các nhà văn nổi danh như Phan Nhật Nam,Lệ Hằng, Nguyễn Bá Trạc, Luân Hoán, Trần Gia Phụng, Nguyễn Hưng Quốc, thi sĩ Nguyễn Đức Bạt Ngàn với bài “ Bình minh câm “ được diễn ngâm trên đài BBC...Nhiều thiên tài khác phục vụ trên các lãnh vực khoa học và kỹ thuật ở khắp nơi.
Các anh chị tôi thường nhắc lại vở kịch “ Bỏ trường mà đi “ lúc đó Phan Nhật Nam đóng vai chính. Đúng vậy, chúng ta thật sự bỏ trường mà đi, bỏ cả quê hương xứ Quảng ra đi trong nỗi đau, thương xót ngậm ngùi, không một lời tạ từ. Thân phận người ra đi, trong các hoàn cảnh khác nhau. Sau 29-3-75 phần nhiều các thầy cô không còn tiếp tục dạy.
Đà Nẵng ngày nay dù đổi thay, nhưng những dấu chân kỷ niệm vẫn in đậm trong ký ức chúng ta. Các con đường quen thuộc Lê Lợi, Thống Nhất, Quang Trung, Hoàng Diệu v..v...đã đi qua trong dòng đời với những ngày mưa nắng, chiếc phà sang sông trên sông Bạch Đằng nước vẫn xuôi dòng về biển cả. Những trưa hè nóng bụi, những chiều mưa lạnh đi qua cầu “ Đờ lách” ( De Lattre ) trong cơn gió heo may.
Học sinh Phan Châu Trinh “ hào hoa học giỏi “, các kỳ thi tú tài thường có kết quả cao nhất, so với các trường Tại Đà Nẵng. Kỷ niệm những giờ nghỉ học đứng ở tiệm sách Việt, ngã tư Lê Lợi Thống Nhất trêu nữ sinh các trường Phan Thanh Giản, Nguyễn Công Trứ, Bán Công, Bồ Đề...thường đi ngang qua đường Lê Lợi. Các em Phan Thanh Giản, mặc áo dài trắng hay màu xanh da trời, dễ chịu trong những ngày nắng gắt, đi ngang Phan Châu Trinh, nón lá che nghiêng vì e lệ, mắc cỡ bị đám đông nam sinh đứng làm “ hàng chào “ và trêu như thi sĩ Thu Nhất Phương với những dòng thơ ngọt ngào ,man mác : “ Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón / Chiều mùa thu mây che có nắng đâu / Nắng sẽ làm phai mái tóc xanh mầu/ Sẽ làm khô làn môi em dịu ướt.. Nếu nghiêng nón có nghĩa là từ khước / Thì mười ngón tay em sao bỗng cuống quyít đan nhau / Nửa vầng má em bỗng thắm sắc hồng đào / Đôi chân bước...anh nghe chừng sai nhịp “.
Tuổi học trò thật đẹp mơ mộng và thích vui chơi hơn làm chính trị. Bãi trường có dịp đi chơi Ngũ Hành Sơn, tắm biển Mỹ Khê, đi Túy Loan ăn mì Quảng, đi Hội An ăn cao lầu...Các giai đoạn biến động miền Trung, học sinh ý thức chính trị hời hợt đôi khi bị xách động xuống đường...Có lần bị ăn lựu đạn cay, bởi vì thiểu số học sinh quá khích ném đá tấn công Cảnh sát Dã Chiến.
Biến động chính trị đi qua, mái trường thân yêu được trả lại cho tương lai tuổi học trò. Những sáng đi học trên đường Hoàng Diệu, anh em tôi thường gặp thầy Nguyễn Văn Xuân ( nhà văn ) Hội trưởng Hội Khuyến Học, mùa đông luôn mặc áo khoác dài , đội mũ két. Thầy Phạm Thế Mỹ (nhạc sĩ ) cũng như thầy Thể, hiệu trưởng trường Bán Công, đi dạy luôn luôn chở theo ái nữ rất đẹp. Chúng tôi tinh nghịch chạy Honda chậm chậm sát sau, bẻ các cành phượng hay hoa giấy màu tím để trên cặp...., nhưng các em e lệ sợ thân phụ không dám nói !
Mái trường xưa ấp ủ tuổi học trò, nhiều giáo sư trùng tên nhưng khác họ. Các Thầy : Tôn Thất Dương Kỵ dạy Pháp văn, Nguyễn Ngọc Kỳ dạy Anh văn. Bùi Tấn dạy Toán, Trần Tấn dạy Pháp văn.
Thầy Trần Tấn đeo kính cận nặng độ, thầy thương học trò như con. Tôi không thể quên buổi sáng thứ Hai, mặc đồng phục trắng, lớp tôi đến phiên kéo cờ và hát quốc ca, nhưng hát yếu xìu, không hùng hồn chút nào. Học sinh tuần tự vào lớp hai giờ đầu Pháp văn, trên hành lang các thầy cô đi đến từng lớp. Thầy Trần Tấn vào chúng tôi đứng dậy chào, thầy Lê Long Viên , Tổng giám thị cũng đi vào, trên tay cầm con roi dài, nói với thầy Tấn :
-“ Kiểm soát lại học sinh nào không thuộc Quốc Ca, cả lớp hát không ra hồn gì hết. Quốc ca Quốc Hồn Quốc Túy của dân tộc Việt Nam không thuộc sau nầy làm được gì hữu ích cho Quốc Gia ?
Thầy bảo chúng tôi đứng lên và hát lại Quốc Ca. Chúng tôi đứng nghiêm trang hướng về bảng đen hát thật lớn, thầy bảo :
“Hát như rứa tạm được “
Cho phép chúng tôi ngồi xuống, nhưng thầy gọi 3 anh chàng ngồi dưới lớp từ trường tư nhưng loại giỏi được chọn vào học, không thuộc Quốc Ca chỉ nhấp miệng, làm sao tránh được “ hung thần “ Tổng Giám thị. Thầy gọi 3 anh chàng ấy đứng lên không hát được, bị phạt roi,bắt nằm lên bàn đánh mỗi người 3 roi. Thầy Viên ốm gầy, nhưng sức lực phi thường, đường roi của thầy vun vút, anh nào anh nấy nhăn mặt như khỉ ăn ớt, đưa tay xoa nhẹ chỗ đau, xong trận đòn chưa tha còn bảo :
-“Về nhà học lại cho thuộc, sáng mai đến văn phòng trình diện “
Thỉnh thoảng thầy và thầy Phương kiểm soát đồng phục, bảng tên, tóc dài bị rầy. Năm Đệ Nhất tạm coi như đã trưởng thành, “ ba gay “, để tóc dài theo phong trào Hippy, đôi khi thầy lấy kéo hớt ngang mai, không phát giấy hoãn dịch. Kỷ luật của trường nghiêm minh.
Tưởng niệm các Thầy đã mất, nhớ lại năm 1967 thầy Trần Vinh Anh làm Phó chủ khảo kỳ thi tú tài bị một thí sinh đâm chết. Quan tài được mang về Đà Nẵng, đám tang nhiều học sinh đưa tiễn thầy đến nơi an nghỉ cuối cùng. Cái chết của thầy gây xúc động mạnh, báo chí lên án : nền Giáo dục bị lung lay , Đạo đức gia đình và xã hội suy đôì ...
Thầy Trần Tấn dạy Pháp văn. Chúng tôi học với thầy những giờ học khó quên, in sâu vào ký ức...Thầy Tấn mở sổ điểm gọi đọc bài récitation, nhưng có bạn không thuộc. Dãy bàn đầu bên dưới bục của thầy ngồi, Thúy ngồi bên tôi, chui xuống bàn mở cuốn tập có bài đó, cho mấy bạn không thuộc bài, nhìn đọc ngon lành không thiếu một chữ. Mỗi khi dò bài học sinh đứng quay mặt nhìn vào thầy trả lời, ít khi nào nhìn xuống phía bạn học. Bất thình lình thầy đứng lên nhìn thấy Thụy ngồi dưới bàn. Thầy không rầy Thụy, nước mắt thầy chảy dài hai bên má nhăn nheo và nói :
- “ Các em làm như rứa là lừa thầy, sau này các em ra đời giúp ích được gì cho xã hội, hay lại tiếp tục lừa dối đời nữa hay sao ? Các em học cho tương lai các em , không phải học cho thầy...”
Thầy đi lên, đi xuống, trong giọng nói trầm buồn, cả lớp yên lặng không một tiếng động. Tôi đứng lên :
-“ Thưa Thầy, chúng con xin lỗi làm phật ý thầy, mong thầy tha thứ...”
Thầy đưa tay cho tôi ngồi xuống, đi lên bảng bảo các em mở tập học chương khác...Tình yêu của thầy đối với học trò như con, từ đó chúng tôi hối hận, ngoan ngoãn học chăm không vi phạm kỷ luật. Chúng tôi học siêng năng nên kỳ thi đậu hơn nửa lớp, lời dạy khoan dung của thầy chúng tôi khó quên.
Thầy Nguyễn Lương Hiền cao gầy, mùa đông mặc áo len dày tới cổ, đeo kính đen cả ngày lẫn đêm, thầy ít khi nào ngồi trên bàn giáo sư, thường đứng hay ngồi trên bàn đầu học sinh, giảng bài nói về Đạo đức, Tâm Lý. Luận lý. Có nhiều đề tài học sinh được góp ý tranh cải về “ Thuyết Tiến Hoá” của triết gia Darwin Charles ( 1809-1882 ), tác phẩm Nguồn gốc các loài ( De l’origine des espèces au moyen de la sélection naturelle ) . Chúng tôi hăng say tranh luận đến hết giờ chuông reo tạm kết thúc. Có lúc thầy bị cảm khan tiếng nhưng cố gắng giảng cho kịp chương trình học cho mùa thi .
Thầy Trần Công Kiểm dạy Công dân. Tôi còn nhớ mãi thầy nói về luật cung và cầu trong kinh tế học thao thao bất tuyệt. Thầy Quế dạy Việt Văn, mất trong trại cải tạo. Biết được tin giới hạn các thầy trên đã mất, học trò mỗi người một phương trời xa, riêng tôi xin đốt nén nhan lòng, hướng về quê hương, tưởng nhớ đến các thầy quá cố.
Trường Phan Châu Trinh nhiều lớp, nhiều giáo sư, tôi học với các thầy Trần Gia Phụng, Đỗ Viết Lê ( Sử Địa ), Nguyễn Thanh Trầm, Kim Cương ( Vạn vật ), Trần Thông, Trần Đình Quân, thầy Quế ( Việt văn ), Tạ Quốc Bảo, thầy Huấn, Nguyễn Ngọc Kỳ ( Anh văn ). Mỗi thầy một phương pháp riêng. Thầy Huấn muốn học thuộc ngữ vựng ngày học năm chữ,nhiều năm sẽ thuộc cả cuốn tự điển, thầy Bảo cần học thuộc các mẫu câu, thành ngữ, văn phạm, thầy Kỳ muốn hằng ngày viết nhật ký bằng tiếng Anh...nhưng rất tiếc thiếu chương trình luyện giọng, nghe và hiểu.
Dạy toán thì thầy Nguyên, thầy Đức, thầy Hào. Muốn giỏi tóan phải học thuộc công thức , làm hết bài tập ứng dụng nhiều sách. Giờ Vạn vật là môn học tôi không thích , nhưng thầy Nguyễn Thanh Trầm làm cho môn học hấp dẫn, về cơ thể con người thầy nói : “Cái lưỡi nguy hiểm nhất, tất cả sự việc xảy ra đều do cái lưỡi...Đàn bà là sinh vật nguy hiểm nhất, nhưng quả đất này không có đàn bà sẽ khô cằn hơn...Đôi mắt của Tây Thi cũng nguy hiểm ‘ nhất cố khuynh thành, tái cố khuynh quốc “.
Thầy Trần Thông với hai câu trong bài cổ văn “ Đói lòng ăn nửa trái sim uống lưng bát nước đi tìm người ( thương ) yêu”. Thầy dẫn chứng tình yêu trong thi ca bình dân, tình yêu phát xuất từ rung động bẩm sinh của con người, tạo dựng hạnh phúc gia đình, xã hội...Nhưng thầy Thông tôn thờ “ chủ nghĩa độc thân “ , đi chiếc xe Velo solex, có lẽ thầy muốn sống lập dị, xe Honda thời đó không đắc lắm. Giai phẩm Như giọt mưa xuân do thầy làm cố vấn qui tụ nhiều cây viết học trò rất sáng, nhiều hi vọng góp mặt vào làng văn.
Thầy Nguyễn Đình Trọng ( nhà thơ Đông Trình ), nhà thơ phản chiến. Thơ của thầy gây xúc động tuổi trẻ, trong giai đoạn chiến tranh đêm đêm nghe tiếng đại bác với ánh hoả châu. Sau cuộc chiến không biết thầy còn làm thơ nữa không ?
Thầy Trần Đình Quân còn là nhạc sĩ. Ngoài giờ dạy, thầy sinh hoạt với nhóm du ca “ Về nguồn ‘, trong bộ bà ba màu nâu, hát cho người, hát cho quê hương ! Nhiều nam nữ học sinh Phan Châu Trinh và Nữ Trung học theo đoàn du ca đó. Cuộc chiến chấm dứt, vết thương chưa kịp khép kín, trại tập trung cải tạo rộng mở, tiếng hát của thầy chìm vào lãng quên. Thầy Trần Đại Tăng dạy Toán cũng là một thi sĩ làm thơ rất hay.
Báo Người Việt California viết về sinh hoạt Hội ái hữu Liên trường Quảng Nam Đà Nẵng tại California. Được biết thầy Tạ Quốc Bảo làm M.C điều khiển chương trình sinh hoạt. Thầy Bảo dạy Anh văn, thầy dự định xuất bản cuốn văn phạm Anh văn năm lớp Đệ nhị, tôi phụ nhận quay bài học, giúp thầy phân phát cho các bạn. Sau này ở Huế về gặp thầy mở tiệm sách trên đường Hùng Vương gần Chợ Cồn. Tôi mua vài cuốn sách, thầy cho giảm giá tiền, thông cảm đời sinh viên nghèo , tình thầy trò quý nhau, sau này thầy có xuất bản các tác phẩm ấy không ?
Nhận Đặc san Đất Ngũ Phụng của Hội Ái Hữu Quảng Nam Đà Nẵng tại Houston, có địa chỉ thầy Trần Gia Phụng, tôi liên lạc mua sách và điện thoại xin phỏng vấn , viết bài giới thiệu các tác phẩm của thầy , trên các báo tại Âu Châu và Dân Chúa Úc Châu. Từ 1996 đến nay, thầy xuất bản 9 tác phẩm sử học, đóng góp vào kho tàng văn hóa Việt Nam. Sách thầy viết giúp tôi ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam. Các bản thảo vài bài tôi viết gởi đến thầy xin góp ý.
Một người bạn cho biết hè 2003 sẽ có cuộc họp mặt tại nhà cô Phan Mộng Hoàn ở San Jose ? Người bạn đó thường về Đà Nẵng , gặp thầy Lê Long Viên vẫn còn hút “ ống vố “ như xưa, thầy Nguyên dạy Toán chuyển qua trường Sao Mai.
Cựu học sinh Phan Châu Trinh tốt nghiệp Đại Học Sư phạm Huế về lại dạy trường Phan Châu Trinh rất nhiều. Tại Đức nhiều học sinh Phan Châu Trinh du học thành công, nhưng sống tản mát khắp các tiểu bang, gặp nhau rất khó. ( Nhiều bạn trước 1975 hoạt động trong “ Hội Đoàn Kết “, thân cộng sản, riêng tôi, tôi yêu thích chủ thuyết “ Dân Quyết “ của Cụ Phan Châu Trinh, không thích Karl Marx và Lenin ).
Viết về kỷ niệm thời học trò 32 năm về trước không tránh được thiếu sót, kính mong quý thầy cô, bạn hữu cảm thông, cùng sống lại những ngày trong quá khứ, một thời vàng son, đáng yêu và đáng nhớ. Những kỷ niệm về mái trường thân yêu ngày xưa như những tia nắng hạ sưởi ấm chúng ta trong những ngày xa xứ.
Nguyễn Quý Đại ( Germany )
( “ ĐS Kỷ niệm 50 năm thành lập Trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng. 29 tháng 11 năm 2002, Little Saigon, Hoa Kỳ “ )