Trường Phan Châu Trinh các năm học trước mới chỉ có đến lớp Đệ Tứ ( lớp 9 ). Học xong Đệ tứ, đậu xong bằng Trung học Đệ nhất cấp, muốn học lên nữa, học sinh phải khăn gói ra Huế, hoặc vào Nha Trang, Sài Gòn. Năm tôi đến , niên khóa 1958-1959, trường mới được phép mở Đệ nhị cấp . Ba lớp : 1 Đệ tam A, 1 Đệ tam B, 1 Đệ tam C ( tức lớp 10 ABC ).
Tôi được phân công dạy tại cả ba lớp đó, vừa Toán ,vừa Lý Hoá. Riêng lớp Đệ tam B , đệ nhất lục cá nguyệt , tôi chỉ dạy môn Hình học, môn Đại số thầy Bùi Tấn dạy. Đến Đệ nhị lục cá nguyệt , tôi mới dạy hoàn toàn. Tôi được trường giao làm Giáo sư hướng dẫn lớp Đệ tam B ( Khoa học Toán ), lớp lớn nhất, lớp đầu đàn của trường.
Cơ ngơi trường PCT lúc đó còn rất nhỏ, gồm một dãy sáu phòng, vừa làm phòng học ,vừa làm văn phòng, mặt nhìn ra đường Lê Lợi.
Khuôn viên trường rộng bao la, trải dài từ đường Thống Nhất đến cạnh hông trường tư thục Phan Thanh Giản. Sân trường còn đổ cát, chỗ cao, chỗ thấp, bao quanh bằng một hàng rào kẽm gai quân đội thấp lè tè, đứng bên ngoài nhìn được hết mọi sinh hoạt bên trong.
Cây cối còn lèo tèo, bé khẳng khiu, phất phơ eỏ lả trước gió. Hè vừa rồi, tám phòng học gồm bốn trệt, bốn lầu được hoàn thành thêm, đứng vuông góc với dãy nhà cũ, lưng quay về phía đường Thống Nhất. Hai cơ ngơi cũ và mới lúc đó còn rời nhau, chưa nối kết vào nhau như bây giờ.
Ba lớp đệ nhị cấp đầu tiên được ưu tiên vào học tại 3 phòng trên lầu của dãy nhà mới , theo thứ tự Đệ tam A, Đệ tam B, rồi Đệ tam C. Vào trong lớp dạy còn nghe thơm mùi vôi mới, mùi gạch ngói mới, mùi bàn ghế mới...
Tôi muốn kể nhiều đến lớp Đệ tam B, lớp tôi dạy Toán và phụ trách giáo sư hướng dẫn hai năm liên tiếp. Đây là lớp dạy nhớ đời của tôi. Đây là lớp dạy để đời của tôi. Đây là lớp tôi vừa dạy vừa học. Đây là lớp tôi vừa là thầy vừa là bạn. Đây là lớp qui tụ tất cả gì là tinh hoa, là trí tuệ của Quảng Nam – Đà Nẵng lúc bấy giờ, của miền đất được mệnh danh là Ngũ Phụng Tề Phi.
Trong cuộc đời dạy học của mình, trong suốt 40 năm ở PCT, tôi đã gặp nhiều em học sinh giỏi, thật là giỏi, giỏi đến xuất chúng, giỏi đến độ mình là thầy dạy nó nhưng lắm khi cũng phải phục lăn ra, không thốt được nên lời !
Ngồi suy nghĩ lại, tôi phải công nhận là chưa hề gặp một lớp học sinh nào giỏi đều như thế. Vừa học giỏi, vừa thông minh, vừa tài hoa,vừa nghệ sĩ, vừa tình cảm. Hát hay, đàn hay, viết văn hay, làm thơ hay, vẽ rất đẹp, chơi thể thao cũng giỏi. Lớp khoảng 50 học sinh, toàn nam , chỉ có 2 nữ. Tôi còn nhớ :
Nguyễn Hữu Hùng, Lê Tự Hỷ, Tôn Thất Hải, Tôn Thất Tuấn, Võ Thị Thương, Phan Thị Xuân Nguyệt, Mai Chánh Trí, Phan Nhật Nam, Nguyễn Văn Minh , Võ Ý, Nguyễn Thanh Thừa, Đỗ Viết Tịnh, Nguyễn Bá Trạc ,Trương Công Nghệ,Phạm Văn Đồng, Hồ Công Lộ,Phan Bái, Bùi Ngọc Tô,Nguyễn Thu Giao, Võ Văn Hải,Chế Văn Thức,Đặng Ngọc Khiết, Vĩnh Lai, Ngô Văn Mạnh, Tôn Thất Chơn Tu, Giang Lý Đương, Lương Văn Thuận, Đỗ Hữu Toàn, Nguyễn Trác Diễm, Phan Bá Sáu...
Trưởng lớp là Võ Ý, đẹp trai, ăn nói nhỏ nhẹ. Trưởng ban báo chí là Đỗ Viết Tịnh, thơ hay vẽ đẹp. Trưởng ban văn nghệ là Đỗ Hữu Toàn, biệt hiệu Đỗ Toàn, guitar điêu luyện, hát rất hay. Viết văn có Phan Nhật Nam, Nguyễn Bá Trạc, Nguyễn Thu Giao, Đỗ Toàn. Làm thơ có Võ Ý, Đỗ Viết Tịnh, Tôn thất Chơn Tu (Chu Tân ).
Em nào cũng nghệ sĩ tài hoa đầy mình. Thầy trò tuổi sàn sàn nhau ( có mấy em lớn tuổi hơn tôi nữa ) nên rất dễ cảm thông nhau. Với chức năng là giáo sư cố vấn hai năm liên tiếp, nhất là vì mến thương các em , tôi hiểu kỹ từng em một. Từ cái hay đến cái dỡ. Từ cái học đến cái chơi. Và như tôi được biết thì các em cũng đã dành cho tôi một tình cảm ưu ái đặc biệt...
Lúc mới bắt đầu đi dạy, tôi còn rất trẻ. Có lần bác cai trường Nguyễn Văn Thôi đóng cổng không cho tôi vào trường theo cửa dành cho các thầy cô, chỉ tay bảo tôi đi vào bằng cổng nhỏ dành cho học sinh. Khi thầy Nguyễn Kế, lúc đó là nhân viên văn phòng phụ trách học vụ, trao thời khóa biểu cho tôi, thầy đùa bảo : “ Trẻ như thế này mà dạy lớp lớn thế à, học sinh nó xỏ mũi kéo đi đó, có sợ không ? “.
Giờ đầu tiên bước chân vào dạy ở lớp này cũng chính là giờ dạy đầu tiên trong cuộc đời dạy học của tôi. Mở cuốn sổ điểm danh mà hai tay cứ run run, nghe thoáng đâu đây từ cuối lớp : “ Trẻ thế này à ? “, “ Trông thư sinh quá ! “.
Bài dạy đầu tiên đáng lẽ phải kéo dài 50 phút, thế mà tôi dạy đâu chỉ 15 phút là hết bài ! Bối rối, không biết nói gì nữa, bèn lấy cuốn sổ gọi tên, gọi tên từng em một, bảo là để biết mặt, nhưng sao thấy em nào khuôn mặt cũng giống nhau hết cả ! Hết giờ, kiểng đánh, đi như chạy về phòng Hội đồng giáo sư, nghe tim còn đập liên hồi !
Bây giờ ngồi nhớ lại, tôi vẫn công nhận đúng đây là lớp có nhiều học sinh giỏi. Thuở ấy, mỗi lần giảng lý thuyết xong, tôi đều cho học sinh làm ngay một hai bài toán chạy, để kiểm tra trình độ tiếp thu của các em. Mới đọc đề vừa dứt, đã thấy các em ào ào đem bài lên nộp. Các em ngồi cuối, các em ngồi giữa bàn trèo lên hẳn qua đầu các bạn mình để tranh nộp bài cho mau. Lớp học bao giờ cũng linh họat, vui nhộn và thân ái...
Lớp Đệ tam B Phan Châu Trinh ( niên khóa 1958-1959)
Một sáng thứ hai, bước chân vào lớp, tôi gắt gặp nhiều nụ cười hóm hĩnh trên môi các em. Nhiều cặp mắt nhìn tôi lạ lạ . Trên mặt các bàn học, tôi thấy có đến hơn mươi tờ nguyệt san Phổ Thông của nhà văn Nguyễn Vỹ, đang ở trạng thái mở. Có mấy em đang chăm chú xem gì trong đó một cách say sưa thích thú.
Tôi cầm một tờ lên xem. Tờ báo đăng bài thơ “ Thoáng buồn “ của tôi, chiếm cả một trang giấy. Chà , bọn này tài thật, tôi đã biết gì đâu. Đến dạy ở trườngnày, tôi đâu có cho ai biết tôi làm thơ đâu. Chỉ có vài thầy, trước đây là bạn cùng lớp, mới biết mà thôi. Làm sao bọn chúng biết được biệt hiệu của mình ? Nghĩ như vậy nhưng trong lòng cũng thấy hãnh diện, vui vui.
Đến giờ học cuối sáng hôm đó ( tôi dạy giờ đầu và giờ cuối của sáng Thứ hai ), vừa bước chân vào lớp, mới ra hiệu cho các em ngồi xuống, tôi nhận được một món quà tặng thật bất ngờ, do Nguyễn Bá Trạc, từ cuối lớp đem lên : Trong giờ ra chơi, các em đã cùng nhau họa bài “ Thoáng buồn “ đó, mỗi người hai câu, riêng Nguyễn Bá Trạc ba câu kết.
Các em ký tên ngay đầu câu mình là tác giả một cách trang trọng. Bài thơ họa đậm đà, bay bướm, rất dễ thương. Tôi còn giữ kỹ bài thơ họa đó cho đến hôm nay. Tiếc rằng sau 30 năm lấy ra xem lại thì một số câu đã bị phai đi hoặc bị mọt ăn mòn.
Tôi ghi ra đây cả hai bài, bài của tôi và bài họa của các em, xem như một kỷ niệm đẹp. Vâng, một kỷ niệm rất đẹp và không thể nào quên của tôi.
Thoáng buồn
Thơ Trần Hoan Trinh
Nắng rưng rưng đọng bờ mi tơ liễu
Gió bàng hoàng thổi nhẹ áng mây xanh
Chiều hôm nay tơ trắng ngập kinh thành
Aó hồ thủy và mắt mầu ngọc bích
Tôi gặp em đi dáng buồn cô tịch
Gót u trầm vương vướng áo tơ bay
Nghe nhẹ nhẹ như tình yêu thoáng đượm
Nắng chảy lung linh dập dìu cánh bướm
Bước ngại ngùng ngường ngượng buổi sơ giao
Tóc rũ bờ vai trâm giắt hoa cài
Lời yên lặng trên bờ môi rung động
Em bâng khuâng giữa hồn chiều im bóng
Nhìn mây xanh bay phủ lối kinh thành
Mắt hồ thu rực rỡ nét tinh anh
Nhưng bỗng chốc lại u sầu vời vợi
Non nước hoa gươm đượm màu đen tối
Em nghiêng mình nhẹ nhẹ đón tơ bay
Nhớ thương ơi ! Mới gặp gỡ hôm nay
Đã nghẹn nghẹn như đang đưa tiễn
Đôi mắt tìm nhau nét buồn lưu luyến
Tim run run và lời cũng run run
Chiều dần nghiêng trong sắc nắng phai dần
Hồn lạc lõng vào một thời sơ thủy
Mắt hoàng hôn xanh như mầu thiên lý
Phấn hương chìm trên nếp má say mê
Mến yêu ơi ! Sao chưa hẹn chưa thề
Mới sư ngộ đã thấy lòng hoang vắng
Thoáng gặp mà thôi rồi xa vương vấn
Em lặng buồn ta cũng lặng ưu tư
Chớm yêu nhau lòng đã sợ tạ từ
Mơ mộng ngọc vẫn sợ thành ảo mộng
Em đứng miên man hoàng hôn gió lộng
Cả trời chiều gờn gợn nét hoang sơ
Ngơ ngác tìm mây lời vẫn lặng lờ
Em khe khẻ đưa tay cài lại tóc
Trong im lặng đã nghe hồn rưng rức
Lời run ta thầm nhủ thoáng buồn thôi !
Mến thương ơi ! Buồn tím bốn phương trời !
Bài họa : Bài thơ mùa Hè
Trang tặng tác giả “ Thoáng buồn “
Đại diện hội thơ III B : N Bá Trạc
Đặng Ngọc Khiết : Chiều hôm ấy gặp em bên bờ liễu
Liễu tơ xanh vẫn kém mắt em xanh
Bùi Ngọc Tô : Đêm hoa đăng sóng nhạc vỡ kinh thành
Duyên ướm nụ, mộng đúc màu ngọc bích
Nguyễn Trác Diễm : Nhớ bóng em anh sầu trong cô tịch
Tim tái tê theo cánh phượng úa bay
Lê Tự Hỷ : Vui gặp nhau chưa mấy độ thu nay
Mà đã khóc buồn mùa hoa thắm đượm
Phan Nhật Nam : Trong mãnh vườn hoa dập dìu cánh bướm
Bay vờn hoa như muốn mãi hoan giao
Võ Ý : Mái tóc xanh bướm kẹp với hoa cài
Hồn trong trắng môi hồng ôi sống động
Tôn Thất Hải : Đêm dần xuống tím buồn mình một bóng
Nghe u sầu tàn tạ khắp kinh thành
Hồ Công Lộ : Giờ biệt ly buồn lắm phải chăng anh ?
Buồn luyến tiếc tình dâng lên vời vợi
Tôn Thất Tuấn : Bóng cô tịch chìm dần trong u tối
Vài cánh chim lạc lõng lững lờ bay
Võ Văn Hải : Đôi môi kề em khẽ : nhớ hôm nay !
Mi ướt lệ em tôi sầu đưa tiễn
Đỗ Viết Tịnh : Phượng không rơi vì phượng còn quyến luyến
Thương tình gầy, gió đến phượng run run
Nguyễn Thu Giao: Trong chiều nghiêng hồn ngây ngất lịm dần
Cao vời vợi trời xanh khơi động thủy
Võ Thị Thương : Gió nâng nhẹ tiếng buồn vào thiên lý
Hỏi lòng đây tiên cảnh hoặc bến mê
Nguyễn Hữu Hùng: Đôi bờ vai buông rũ mái tóc thề
Mắt hoàng ngọc u sầu trong chiều vắng
Nguyễn Văn Minh : Nắng nhạt dần dâng lên niềm vương vấn
Vương trong lòng bao nhiêu nỗi ưu tư
Nguyễn Thanh Thừa: Hè về đây mang theo ý giã từ
Đâu còn nữa những ngày vui hoa mộng
Xuân Nguyệt : Hoa mầu thắm rung mình trong gió lộng
Lòng ngập ngừng mơ lại thuở ban sơ
Trương Công Nghệ : Ve than van bỗng dứt tiếng lặng lờ
Mầu nắng tắt thôi mơn man mái tóc
Nguyễn Bá Trạc : Thoáng trúc ty phượng hồn buồn rưng rức
Gợi ý sầu cách biệt tự đây thôi
Nét sơn xuyên lảng đảng gợn mây trời...
Hoạ nguyên vận bài “ Thoáng buồn “ của T. Hoan Trinh
Giờ ra chơi Thứ Hai 20/4/59
Sài Gòn, 2002
Trần Hoan Trinh
( * ) Chú thích của Ban Biên Tập : Bài này trích trong hồi ký Một đời thầy một đời thơ của Trần Hoan Trinh, tựa đề do BBT đặt. Bài thơ họa của lớp Đệ tam B niên khóa 1958-1959 ) đã được đánh máy lại và tác giả các câu thơ họa ký tên trước tên mình, để tặng thầy Trần Đại Tăng, tức thi sĩ Trần Hoan Trinh .
( ĐS Kỷ Niệm Trường Xưa, Santa Ana, California ngày 05 tháng 07,2009 )