
We have 48 guests and no members online
“ Thương vô biên những con đường Đà Nẵng
Buổi học về im bóng lá Quang Trung “
Năm 1957, tôi thi đậu vào Đệ thất trường công lập Phan Châu Trinh, bắt đầu cho những năm tháng miệt mài đèn sách bên thầy cô, bạn bè. Mãi đến bây giờ , dưới lớp bụi thời gian phủ mờ vùng ký ức , có những hình ảnh vẫn còn rõ nét, như mới vừa xảy ra ngày hôm qua.
Năm đó, trường có bốn lớp Đệ thất. Lớp Đệ thất 1 của tôi gồm toàn con gái , họp thành cái chợ, khiến thầy cô nào bước vào cũng đề cao cảnh giác. Không biết tôi có duyên với người di cư hay sao mà khi xếp chỗ, hai nhỏ ngồi bên phải và bên trái tôi đều đến từ phương Bắc : Nguyễn thị Bích Lan và Đinh thị Kim An . Bích Lan nói giọng Hà Nội rất chuẩn , phân biệt rõ ràng âm “ t “ , “ c” ( hiểu biết, xanh biếc ), có và không có âm “g “ ( nghiêng xuống, nghiên bút ), các dấu “ hỏi” ,” ngã “ ( bổng lộc, bỗng nhiên ). Cho nên mỗi lần đọc chính tả, thầy cô dạy vẫn thường cho Bích Lan lập lại câu đã đọc, thế là chúng tôi lắng nghe và không còn sợ viết sai nữa. Kim An có tính nghệ sĩ, thích chép thơ và ngâm thơ, giọng hay không thua gì Hồ Điệp ( nghệ sĩ ngâm thơ nổi tiếng lúc bấy giờ ) .
Mới chân ướt chân ráo, thầy Nhân, giáo sư cố vấn giao cho tôi giữ chức Trưởng ban Văn nghệ, bao nhiêu trách nhiệm đổ trút lên vai , nào làm báo tường, tham gia ca hát. Tờ báo tường năm đó lấy tên là Mầm Non, với hai chữ M, N được tôi nắn nót ,cóp pi theo các mẫu chữ trong sách dạy thêu. Ban biên tập gồm nhiều người nhưng tôi chỉ nhớ mỗi Bích Lan với bức tranh Hai Bà Trưng vẽ bằng mầu nước rất “ấn tượng “. Tết 1958, thầy Nhân bắt buộc lớp phải có tiết mục văn nghệ mừng Xuân. Tôi thức suốt ba đêm liền, định viết một vở kịch cho các bạn trình diễn. Viết hoài không được, tôi đành “ chôm “ ý một vở nhạc kịch của ban Thăng Long trong đĩa hát. Diễn viên gồm 4 đứa : Tôi và Hồ thị Hồng đóng vai thanh niên, Bích Lan và Phạm thị Duyệt đóng vai thôn nữ. Áo quần trình diễn được Thủy Tiên , con gái của chủ nhân Photo Phụng Ký cho mượn nên không gặp trở ngại gì hết. Vở kịch được các thầy cô tuyển chọn tham gia Đêm Văn nghệ Tất niên . Chúng tôi rất vui, nhất là Duyệt, mừng đến nổi nhảy nhót lung tung. Con nhỏ này rấr xinh, thật thà và đầy thiện chí. Nhưng cũng vì Duyệt mà tiết mục của chúng tôi bị “ bể dĩa “ một cách oan uổng . Số là khi lên sân khấu, học sinh cứ nhắm vào người đẹp mà hét ầm lên làm chúng tôi quên hết cả đối thoại.
Lớp tôi có Nguyễn thị Trân Châu, gương mặt đẹp thanh thoát như Đức Mẹ Đồng trinh. Nhớ có lần Châu mặc chiếc áo dài màu hoa cà ôm cặp sách đi tha thướt trên đường , thế là hai tuần sau , trên báo Văn Nghê Tiền Phong ,Sài Gòn , xuất hiện bài thơ đề tặng Tr.Ch. ký tên V.Y : “Em mặc áo màu tím, đi trong bụi hoàng hôn, tôi nhìn theo quyến lhuyến, cô đơn mãnh tâm hồn ...”
Niên khóa sau, chương trìng sinh ngữ được phân ban Anh văn và Pháp văn . “ Vương quốc nữ giới “ của chúng tôi bị chia năm xẻ bảy, phải học chung với các bạn nam. Lớp Đệ lục 2 của tôi chỉ có ba bàn nữ sinh nên tôi còn nhớ rõ : Phan thị Thu Liên, Phan thị Thu Hà, Châu thị Yến Loan, Phạm thị Quỳnh Chi, Hồ thị Hồng, Phạm thị Duyệt, Nguyễn thị Bích Lan, Nguyễn thị Bảo Hoà, Nguyễn thị Lạc Giao, Lê thị Trang, Ngô thị Kim Oanh, Nguyễn thị Thêm, Hồ thị Phấn. Nam sinh thì có Lê tự Rô, Tôn Thất Toản, Khương đại Lượng,Trần đình Thắng,Phạm Ngọc Chấn, Mai xuân Lương,Đinh văn Thìn, Đỗ Quí Tấn, Lê văn Chơn,Cao Ngọc Trãn, Nguyễn văn Khánh...
Trong 4 lớp cùng trang lứa, lớp tôi nổi tiếng nhất vì có nhiều người đẹp. Thu Liên có đôi mắt của Audrey Hepburn, Thu Hà giống cô gái Nhật Bản, Quỳnh Chi da trắng môi tươi, Phạm thị Duyệt có nét đẹp Tây phương, Hồ thị Hồng mắt to, mũi cao, nụ cười quyến rũ. Năm Đệ ngũ 2 có một kỷ niệm vui giữa Thu Hà và Mai xuân Lương trong giờ Việt văn của Cô Ngô thị Như Hà. Hôm ấy , cô dạy trích đoạn tác phẩm Chinh Phụ Ngâm , có hai câu : “Hà Lương chia rẽ lối này, bên đường trông bóng cờ bay bùi ngùi “. Thế là Đinh văn Thìn cặp đôi : “Hà Lương, Hà Lương “ , bên phía nam sinh vỗ tay reo hò, náo loạn cả lớp !
Nói đến bạn tốt , phải nhắc đến Lê thị Trang, con của ông Lê Ấm, cháu ngoại Cụ Phan Châu Trinh. Tính nết của tôi và Trang rất khác nhau. Trang đằm thắm, dịu dàng, khép kín, trong khi tôi thì hiếu động, lanh chanh, ưa chơi nổi như làm thơ đăng báo, dự thi ca hát , nhưng hai đứa lại rất thân nhau. Năm 1961, chúng tôi thi đậu Trung học đệ nhất cấp, Trang “uốn ba tấc lưỡi ” thuyết phục tôi cùng ra Huế thi vào khóa Nữ Hộ sinh, nhưng tôi từ chối. Sau đó hai đứa vẫn liên lạc thư từ. Đến 1965, Trang lấy chồng, gửi cho tôi một tấm hình đám cưới, rồi im hơi lặng tiếng cho đến 30 năm sau. ( Năm 1995, tôi về Đà Nẵng có ghé thăm Trang. Trang đã nghỉ hưu , con cháu đầy đàn ).
Năm 1961, lớp Đệ tam A của chúng tôi lại thay đổi thành viên. Anh văn và Pháp văn học chung, Một số bạn qua ban B, ban C. Một số bạn từ hồi học chung Đệ thất 1 nay trở lại như Võ thị Hồng Đóa, Bùi thị Lệ Hằng, Lê thị Quý Phẩm, Đặng thị Thành, Lưu thị Lựu, Bùi thị Hồng , Đào thị Thái, Lê quang Thục Nhi...hoặc từ trường ngoài thi vào như Tôn Nữ Như Hảo, Nghiêm thị Kim Ngân...Các bạn nam có Vương Ngọc Hà, Vũ văn Long, Nguyễn hữu Lân, Phan Xuân Tứ, Trần Duyệt Tảo...
Đến năm Đệ nhất, lớp tôi xuất hiện một người đẹp có nhan sắc của nàng Thúy Vân . Đó là Hoàng Bích Quân với “ Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”, đã làm ngây ngất bao trái tim si tình ! Cũng vì vậy mà lớp tôi đã xảy ra “ vụ án Con lắc đơn trên xe Opel “ mà mãi đến bây giờ tôi tin chắc là các bạn vẫn còn nhớ ?
Sau kỳ thi Tú tài II ( 1964 ) chúng tôi như những cánh chim trời tung bay bốn phương :
“ Thôi xin giã từ mây trời thành phố
Hàng cây nghiêng nghiêng ôm bóng Bạch Đằng
Mai này xa xôi vọng về quá khứ
Ghế đá ngậm ngùi, tâm sự giá băng ...”
Trên những chặng thời gian của cuộc đời, tôi đã gặp lại một số trong những người bạn mà tôi đã nhắc đến tên trong bài viết này. Năm 1966, tôi gặp Lê quang Thục Nhi ở Huế. Hai đứa vừa đi vừa nói chuyện suốt chiều dài cây cầu “ Tràng Tiền 6 vài, 12 nhịp “ , rồi chia tay cho đến 33 năm sau.
Năm 1968, tôi gặp Thu Hà ở trường Dược Sài Gòn. Hà nói chuyện rất vui và cởi mở, không còn trẻ con như xưa nữa. Cũng năm này tại Sài Gòn, tôi đã gặp Duyệt. Duyệt có một con trai và đang mang bầu đứa thứ hai.
Năm 1970, tôi gặp Bích Quân ở chợ Bến Thành. Quân khoe vừa sinh con gái đầu lòng (sau này thấy cô hoa hậu Lý Thu Thaỏ có gương mặt hao hao Bích Quân, năm sinh cũng trùng hợp, tôi nghĩ cô ta là con của BQ, nhưng hỏi lại thì không phải ).
Năm 1971, tôi gặp Lệ Hằng ở toà soạn báo Tuổi Hoa. Lúc này Lệ Hằng đang nổi tiếng như cồn với những cuốn tiểu thuyết trữ tình : Thung lũng Tình Yêu, Mắt tím, Bản Tango cuối cùng...
Năm 1972, về Đà Nẵng tôi gặp lại Bích Lan, đã có bốn con. Hồ thị Hồng góa bụa. Lưu thị Lựu, Tôn Nữ như Hảo và Châu thị Yến Loan đang dạy học. Kim Oanh bán hàng kim khí điện máy ở Chợ Cồn.
Năm 1975, tôi gặp Đặng thị Thành làm Giám hiệu một trường Tiểu học, Nguyễn hữu Lân hành nghề bác sĩ tại nhà. Trân Châu dạy học ở Cần Thơ.
Năm năm, mười năm, tồi mười lăm năm sau, đến năm 1999, tôi nhận được cú phone :
- “ Ái ơi, biết ai đây không ? Thục Nhi nè. Mình ở Pháp về chơi. Ngày mai mình về lại rồi
- Trời đất, ngày mai đi sao giờ mới gọi ?
- Xin lỗi Ái, rất tình cờ Nhi mới được số phone của Aí. Cận ngày quá, thôi hẹn sang năm nhé. Năm nào Nhi cũng về Việt Nam cả.”
Cũng trong năm này, vài tuần sau đó, điện thoại nhà tôi lại reo :
-“ Alô, chị Ái phải không ? Tui nè, Toản Phan Châu Trinh ngày xưa đây. Nhớ không ?
- Toản ? Phải “ Tôn Toản Bốc Sư “ không ?
- Đúng rồi. Tui ở Mỹ về, muốn gặp lại bạn bè Phan Châu Trinh cũ, chị giúp tui được không ?
- Sẵn sàng”
Buổi họp mặt tổ chức tại nhà Đào thi Thái, có Nghiêm thị Kim Ngân, Phạm thị Quỳnh Cư ở Sài Gòn, Lê tự Rô, Phan Xuân Tứ ở Biên Hoà. Ngoài ra còn có thầy Vĩnh Vinh, dạy Pháp văn năm Đệ tứ. Tôn Thất Toản ngày xưa thường bị trêu là “ Tôn Toản Bốc Sư “, giờ đã là Thượng tọa Tịnh Đức nên trong cách xưng hô chúng tôi hơi ngỡ ngàng, nhưng chỉ giây phút ban đầu thôi, bao kỷ niệm dưới mái trường Phan Châu Trinh ngày cũ tràn về, đã nối kết những trái tim thân ái. Thái làm hai món Tôm Rang Me và Cháo gà. Tôi bảo nó : “Chết rồi , Thượng tọa làm sao ăn mặn được ?”. Quỳnh Cư cười : “ Khỏi lo, Cư có đem theo món chay đây “. Ôi một mâm thức chay thịnh soạn ! Cô bé này quả chu đáo thật. Sau khi Toản mang theo tin tức bạn bè ở Việt Nam về Mỹ, tôi nhận được airmail của Đinh thị Kim An và Phạm thị Duyệt, sau đó là email của Trần đình Thắng, ba bạn này đang ở Mỹ. Nói làm sao xiết nỗi vui mừng.
Cuối năm 1999, Lê Kim An , học sau chúng tôi một năm, từ Canada về Việt Nam. Buổi họp mặt tổ chức tại nhà Phạm thị An,( con gái thầy Khánh dạy vẽ ). Lê Kim An cho biết hiện anh đang ở gần nhà Phan thị Thu Hà. Tôi gởi cho Hà tấm danh thiếp.
Đầu năm 2000, tôi nhận được thư của Hà, có cả hình nữa, phía sau viết : “ Ái ơi, 55 tuổi rồi, dễ sợ quá ! “ Sai rồi Hà ơi, có chi mô mà sợ ? Hà không khác xưa mấy, chỉ hơi “ mệnh phụ “ chút thôi.
Tôi rất vui khi liên lạc được với bạn bè cách xa nửa vòng trái đất. Niềm vui càng nhân lên gấp bội khi tôi nhìn thấy trên Website Phan Châu Trinh do Vương Ngọc Hà thiết kế những bài viết, những hình ảnh thân yêu của thầy cô, bạn bè cũ...Vui nhất là trang “ Lưu Bút Ngày Xanh “ . Tôi đã email cho Hà : “Không ngờ ngày xưa Aí viết bậy bạ quá ! “.
Tháng 7 năm 2001, Thục Nhi về Việt Nam cưới dâu. Đám cưới rất vui. Ngoài bạn bè như Quỳng Cư, Quý Phẩm, Đào thị Thái, Lê tự Rô, Phạm Ngọc Chấn còn có thầy Việt dạy Pháp văn năm Đệ nhất, thầy Trần Đại Tăng dạy Toán năm Đệ nhị, thầy Vĩnh Vinh. Hình ảnh anh bạn Hoàng Ngô mặc veste xanh dìu “ Bà mẹ chồng Thục Nhi “ rất dễ thương trong chiếc “ robe “ lụa đỏ bước lên sân khấu cùng dâu rể ra mắt hai họ trong cuốn băng video gây “ ấn tượng “ đến nỗi Trần đình Thắng email cho biết có hai bạn ( xin dấu tên ) có ý định nộp đơn xin đóng vai của Hoàng Ngô trong những lần tới ! ( Thục Nhi còn hai cậu con trai nữa ).
Trải qua bao sóng gió cuộc đời, người thành đạt, kẻ không gặp vận may, người còn ở Việt Nam, kẻ sống đời lữ thứ, thời gian không buông tha một ai. Tất cả chúng ta, giờ tóc đã không còn xanh, da đã không còn thẳng, hãy xích lại gần nhau, cùng nhớ về những ngày xưa.
Tuyết Aí ( PCT 1957 – 1964 )
( Đặc San kỷ niệm 50 năm thành lập Trung học Phan Châu Trinh. 29 tháng 11 năm 2002, Little Saigon, Hoa Kỳ )
Tháng 7, giữa mùa Hè, khoảng thời gian các Họp Mặt PCT thường được tổ chức.
Tháng 7 năm nay lạI về, chân thành tưởng niệm các anh chị và bằng hữu PCT đã ra đi :
Sư Tịnh Đức Tôn Thất Toản, Trần thị Ngọc Trai, Trần t Ngọc Bích, Đoàn Ngọc Đông,Tôn Thất Tuấn, Lương Mậu Cường, Chế văn Thức ,Trần Hữu Hội,Trần Nhật Ngân, Nguyễn Thu Giao, Thái Thanh, Đoàn thị Tường Vi,Phạm t Duyệt, Lê Khả Trính, Đỗ Ngọc Lệ, Nguyễn Hữu Lân, Trần Duyệt Tảo, Trần Ngọc Toàn, Lê Tự Rô, Cao Ngọc Trãn,Nguyễn văn Tham,Nguyễn Đức Trì, Nguyễn Thế Anh, Mai Gia Kim Tri,Phan văn Chín, Nguyễn Thiếu Ưng ,Nguyễn thị Aí và Võ Văn Đức.
***
Sau Đại hội Phan Châu Trinh toàn thế giới kỳ II ( tại Cali tháng 7, 2012 ), trở lại nhà cũng hơn bốn tuần qua,nhưng niềm vui ấm áp được gặp lại Thầy Cô xưa và bằng hữu cũ như hãy còn mãi trong tôi.
Đại hội chính đã được ghi lại nơi bài tường thuật “ Nghĩa Thầy & Tình bạn Phan Châu Trinh “ của Linh Nguyễn. Vì thế, bài viết nhỏ này, chỉ là những cảm nghĩ đơn sơ về các buổi Họp bạn và gặp gỡ thân tình giữa những cựu học sinh Phan Châu Trinh nhiều niên khóa khác nhau, trước và sau Đại hội.
Khác với Họp Mặt Phan Châu Trinh toàn thế giới kỳ I ( tháng 7- 2009 ), Đại hội toàn thế giới kỳ II ( ngày 1 tháng 7-2012 ) lần này không có buổi “ Tiền Đại hội “ chung cho cả Trường. Tuy nhiên, ngoài Họp Mặt của nhóm PCT niên khóa 1954-60 như lần trước, đã có tất cả những bốn buổi Họp Mặt của các liên lớp trước đêm Đại Hội chính .
Khởi đầu là Họp Mặt của liên lớp PCT 1957- 64, vào chiều thứ năm 6/28/2012 tại Nhà hàng Hương Vỹ. Ngoài những bạn hiện ở Mỹ hay Canada, còn được gặp lại những người bạn sau gần nửa thế kỷ như Phạm Vũ Thi, hay các bạn như Mai Gia Kim Tri và Phạm Ngọc Chấn, đến từ Việt Nam. Ngày xưa chung lớp hoặc chung trường nhưng chưa bao giờ bằng hữu có dịp hàn huyên , chuyện trò cởi mở, thân mật và vui như hôm nay. Quả đúng như lời của Thầy Tịnh Đức :
“ Cám ơn các bạn cho ngày hội ngộ
Một ngày vui sống lại tuổi ngây thơ “
( Tôn Thất Toản )
Họp Mặt kế tiếp là của liên lớp PCT 1958 – 65, vào thứ bảy 6/30/2012, tổ chức tại Mile Square Park, công viên đẹp và rộng mênh mông. Ngoài ra còn một số cựu PCT 1956-63 và PCT 1957-64 cũng đến tham dự buổi Picnic này. Được cùng nhau hát lại “ Hành khúc Phan Châu Trinh “ trong một buổi mai cuối tuần đẹp trời là một niềm vui để nhớ mãi.
Cám ơn thân tình của tất cả các anh chị, các bạn và vòng hoa thân ái của Quỳnh Chi. Cám ơn anh Võ Thiệu đã ghi lại những hình ảnh đẹp và đầy đủ bằng hữu .
Chiều thứ bảy 6/30/2012, Họp Mặt của liên lớp 1956-63 tại nhà anh chị Nguyễn văn Hồng, cũng có vài PCT khác niên khoá và thân hữu. Cảm ơn anh chị gia chủ, và nhã ý của Ngô Phước An cùng Lê văn Long.
Chiều nay gặp các anh chị và bạn hữu PCT nk 56-63, không khỏi nghĩ đến anh Trần Nhật Ngân . Nhớ mãi buổi sáng Chủ Nhật mùa Hè năm đó, 2012, cùng Thu Liên và Ngô Phước An đi thăm mộ của tác giả “ Tôi Đưa Em Sang Sông “.
[ Mộ phần của Nhạc sĩ Nhật Ngân ( Trần Nhật Ngân nk 1956-63 ) ]
Cũng trong chiều thứ bảy 6/30/2012 này, Họp mặt của liên lớp PCT 1959-66 với bạn bè và thân hữu được biết đã tổ chức tại nhà của Minh Nguyệt và thầy Tạ Quốc Bảo.
Những Họp mặt trên, tuy được xem là “ liên lớp “, nhưng đây chỉ là một cách để gọi vì người đứng ra tổ chức thuộc niên khóa nêu lên. Hầu như những Họp mặt hoặc gặp gỡ thân tình PCT nào cũng ít, hoặc nhiều chen lẫn các niên khóa. Bởi lẽ ngày xưa đi học, bạn bè củng trường có thể không quen nhưng cũng đã biết nhau. Bây giờ ở tuổi lớn, niềm thương mến Trường xưa là động lực chính đưa tất cả đến với nhau , trong tình thân PCT cũ.
Thứ hai 7/2/2012, một buổi chiều Cali chan hoà nắng ấm, theo chỉ dẫn của bạn Huỳnh Thị Phú, chúng tôi tìm đến ngôi nhà “ có cây hoa vàng trước ngõ... “.
Cùng với Trần Duyệt Tảo và Huỳnh Thị Phú, hai người bạn sốt sắng và chủ động tổ chức Họp Mặt, anh Đoàn Ngọc Đông , ông xã của Phú, cũng là một cựu học sinh của Trường cũ, nhưng anh thuộc thế hệ PCT đầu tiên. Tương tự Họp mặt của các liên lớp khác, buổi Hội ngộ của PCT 1957-64 chiều nay cũng đã qui tụ nhiều cựu PCT cùng thế hệ ở những niên khoá gần nhau.
( t-p : Anh Đoàn Ngọc Đông thuộc thế hệ PCT đầu tiên, Huỳnh t Phú ,PCT 1957-64, Nguyễn Phụng, PCT 1955-61, chị Như Ý ,hiền thê của anh Nguyễn Phụng )
( t-p : Phan t Thu Liên, PCT nk 1957-64, Lê văn Long, PCT nk 1956-63 )
Trong số đến chung vui, nhận thấy có các anh chị, các bạn cùng thân hữu sau :
- Nhóm PCT 1955-61 : với Nguyễn Chí Thiệp, tác giả “ Trại Kiên Giam “ và “ Việt Nam Khát Vọng Dân Chủ Tự Do “ , và chị Bạch Tuyết ; Nguyễn Phụng và chị Như Ý...
- Nhóm PCT 1956-63 : với Trịnh Thị Diệu Lan và anh Thông, Ngô Phước An, Nguyễn đức Bông, Lê Văn Long, tác giả ca khúc “ PCT một thời để nhớ, để thương “, Đào Bạch Thạch và chị Hoa.
- Nhóm PCT 1558-65 : với Võ Thiệu, Phạm thị Quỳnh Chi và anh Trần Quang Mẫn, Nguyễn Sỹ Tiệp...
- Nhóm PCT 1959-66 : với Nguyễn Tuấn và Nguyễn thị Hoà, Minh Nguyệt và thầy Tạ Quốc Bảo , Ngô thị Phước Khánh, Thái Thu, Đỗ Thu và anh Trâm…
- Nhóm PCT 1957-64 : với thầy Tịnh Đức Tôn Thất Toản, Huỳnh Thị Phú và anh Đoàn Ngọc Đông, Trần Duyệt Tảo, Phan Thanh Hoà và Bích Đào, Nguyến Đức Trì, Lê Thị Cử, Nguyễn Thế Anh và Tiên Dung, Mai Gia Kim Tri, Mai Xuân Lương, Phạm Vũ Thi, Võ Thị Hồng Đóa, Nguyễn Gia Ẩn, Hoàng Bích Quân, Bùi thị Hồng Vân, Phan thị Thu Liên, Phan thị Thu Hà...
(t-p : PCT nk 1957-64 : Lê t Cử, Nguyễn gia Ẩn, Bùi t Hồng Vân, Phan t Thu Liên,Phan t Thu Hà, Võ t Hồng Đóa ...)
( Ngô t Phước Khánh, PCTnk 1959-66 )
Chiều nay Trương Công Lập, Trưởng ban tổ chức Đại hội PCT toàn thế giới kỳ II và chị Ngọc cũng lại chung vui, dù sau Đại hội anh Trưởng ban tổ chức chắc cũng đã thấm mệt ?
Người MC vui vẻ, hoạt bát của Họp Mặt hôm nay, Nguyễn Ngọc My, trong một chương trình văn nghệ đặc biệt với những tiếng hát PCT xưa : Nguyễn Phụng, Nguyễn Đức Bông, Phước Khánh, Lê Văn Long...và các thân hữu Kim Loan, Như Ý, Thu Cúc...với những ca khúc :
- “ Thu hát cho người “ và “Mười thương “ qua tiễng hát ấm áp của PCT 56-63 Lê Văn Long
- “ Màu tím hoa sim “ với giọng ca mạnh của PCT 56-63 Nguyễn Đức Bông , nhưng dìu dặt với bản “ Hương Xưa “. ( Một tình cờ, Cali chiều nay cũng không thiếu “ nắng tơ vàng hiền hoà “ )
- “ Hoa Soan Bên Thềm Cũ “ , “ Bảy Ngày Đợi Mong “, “ Chuyện Phim Buồn “ đầy gợi nhớ với PCT 59-66 Phước Khánh, “ họa mi “ của một thời PCT xưa cũ...
- “ Tôi Đưa Em Sang Sông “ với Nguyễn Ngọc My. Bài hát từng được nhiều thế hệ PCT yêu thích. Chiều nay được nghe lại , giữa không khí họp mặt bằng hữu như thêm hay và gợi nhớ anh Nhật Ngân, tác giả của ca khúc .
- “Rừng lá thay chưa “ bài hát góp vui qua giọng ca “ đặc biệt “ ( hát hay không bằng hay hát ! ) của Sư Tinh Đức Tôn Thất Toản . Còn nhớ trong một Họp mặt nhỏ của nhóm PCT nk 57-64 tại Montreal, mùa hè 1999, lần đầu tiên bằng hữu bất ngờ được nghe Sư Tịnh Đức hát, và khám phá ra “ Niệm Khúc Cuối “ là “ bài tủ “ của thầy ! ( Dĩ nhiên vài câu trong tình khúc này đã được người hát sửa đổi ít nhiều cho thích hợp với ...người đi tu ! Nhạc sĩ Ngô Thuỵ Miên , nếu biết, chắc cũng đành “hỷ xả “ ?! ).
- “Serenata- Chiều tà “ như thêm phần êm dịu qua tiếng hát thật hay của chị Kim Loan, một thân hữu.
-“ Yêu “ của Nhạc sĩ Văn Phụng với lời ca êm đềm như còn thiết tha hơn qua tiếng hát nhẹ nhàng và ấm áp của một thân hữu khác.
Phải nói chiều nay là buổi Họp mặt được nghe nhiều bản nhạc hay và nhiều người hát hay như vậy.
Ngoài ra còn tiết mục “ Kể chuyện tiếu lâm “ !! Hồng Đóa và câu chuyện “ Em hết biết “ khiến bạn bè nhớ lại một Hồng Đóa rất “ tếu “ hay đùa nghịch ngày đi học . Tiếp theo Minh Nguyệt với “Bộ aó thời gian “, câu chuyện mười năm trước ở buổi Họp mặt PCT đông đúc bằng hữu tại nhà Diệu Lan và anh Thông sau Đại hội kỷ niệm 50 năm thành lập trường PCT ( tháng 11/2002 ), nay được nghe lại vẫn thấy vui, như người kể chuyện, “ Bà Trưng Trắc “ của thời tiểu học Đà Nẵng xa xưa.
Ngoài Hồng Đóa, Lê thị Cử của Đệ Nhất A 63-64 năm nào, cũng góp vui qua một bài thơ ...buồn , vừa được Cử cảm hứng sáng tác ngay tại chỗ. Giờ bạn bè mới biết Cử còn là tác giả của nhiều bài thơ khác nữa !
Chương trình văn nghệ chiều hôm đó hấp dẫn đã giữ chân tất cả ở lại cho đến tối. Ra về, chúng tôi vẫn tiếc đã không cùng các bạn chụp một tấm hình nào nơi vườn hoa nhà Phú và anh Đông.
Vườn hoa xinh xắn và muôn màu, có lẽ đã được chăm sóc với tâm hồn của “ Đôi mắt người Sơn Tây “ ? Bạn bè chẳng ngạc nhiên khi thấy tấm bảng “ khen ngợi của City “. Vườn sau cũng đẹp như sân trước. Ngoài những cây xanh chen lẫn với hoa, màu sắc hoà hợp, vui tươi bên hồ tắm, lại còn miên man cây ăn trái : mãn cầu Xiêm, mãn cầu Úc, táo Tàu, thanh long ...Bụi chuối với tàu lá xanh mướt, gợi nhớ quê hương chỉ còn trong ký ức. Và dễ thương nhất là cây đu đủ, cao vừa tầm thôi, nhưng thật sa trái , nằm khiêm tốn ở một góc vườn...
Buổi tối gió mát, hơi lạnh lạnh, từ giả bằng hữu với chút gì như luyến tiếc. Cám ơn Tảo, cám ơn Phú và anh Đông, người gia chủ cởi mở và hiếu khách đã cho tất cả một buổi chiều khó quên. Cám ơn anh Võ Thiệu “ nhiếp ảnh gia PCT “ đã ghi lại “ Đêm Hội ngộ kỷ niệm 60 năm thành lập trường PCT” cũng như các Họp mặt trước và sau Đại hội với những hình ảnh linh động, đẹp và đầy đủ. Người ta thường nói, tưởng nhớ ở trong lòng, nhưng những tấm ảnh đã cụ thể hoá những gì trong tâm tư.
Và như lời của một người bạn PCT “ Cuộc họp nào cũng tan, cuộc vui nào rồi cũng tàn... “, xin mượn mấy câu trong bài thơ “ Những Cánh Chim Đoàn Viên “ của HH Nguyễn Bích Thuận , một cựu PCT ( nk ? ) để kết thúc bài viết nhỏ này :
“...Nỗi nhớ, niềm thương
Nỗi cảm động vấn vương...
...Ôi thương quá, Trường xưa Thầy bạn cũ ...”
Xin cầu chúc tất cả nhiều an lành và sức khỏe . Ước mong một lần nào được gặp lại.
Thi Vân,
Tháng 8/2012
Đà Nẵng 1958
Mộ phần Thầy Trần Đại Tăng (ĐN 16/8/2023 , ảnh của QPL)
HM PCT tại Toronto ngày 9 tháng 6 năm 2009
Thầy Tịnh Đức Tôn Thất Toản
& bạn hữu PCT ở gặp mặt trước HM PCT toàn thế giới kỳ 2 ( CA tháng 7/2012)
(- t-p : Ngô Phước An, Phan t Thu Liên, Võ t Hồng Đoá, Phan t Thu Hà,Huỳnh t Phú,Nguyễn diệu Liên Hương, Trịnh t Diệu Lan,Lâm Xuân Phong,Phạm t Quỳnh Chi,Lê t Cử,,(?), Bùi t Hồng Vân)
Gặp mặt của liên lớp PCT nk 1956-63 & thân hữu trước ngày HM PCT toàn thế giới kỳ 2 (tại CA tháng 7/2012 )
[ t-p : - Võ Công, Trương Văn
Thương (đã mất), Huỳnh Phước Toàn ( đã mất) , Nguyễn diệu Liên Hương, Trần Nhật Ngân ( Nhạc sĩ Nhật Ngân,đã mất)
- Trần thị Ngọc Tuý, bà xã của Huỳnh Phước Toàn, chị Trần thị Ngọc Bích ( đã mất), bà xã của Trần Nhật Ngân. ]
Phan Châu Trinh, Đà Nẵng 1958
(“Trường Xưa 2”,kỷ yếu cựu học sinh PCT nk 1956-63 )
[ t-p : Thầy Tịnh Đức( đã mất ) Nguyễn hữu Lân ( đã mất), Thầy Khánh Hỷ, Trần Duyệt Tảo ( đã mất) , và Võ Văn Mại ]
( Anh Trần Ngọc Hội thuộc thế hệ PCT đầu tiên)
Họp mặt ở Đà Nẵng 2013
(t-p :- đứng:(?), Đặng t Thành, Tôn Nữ Như Hảo, Ngô t Kim Oanh Phạm t Đàm, Lê t Trang
- ngồi : Nguyễn t Ái, Nguyễn văn Khánh, Kim Chi )
t-p : - ngồi : Lương Mậu Cường ( đã mất), Nguyễn Hoàng, Trần Anh Tiến.
- đứng : Chương, Phạm Quý Giao, Bửu Uyển,Nguyễn Phúc.
( Ảnh của NP )
( 1942 - Jan 13/ 2009 )
( Anh Trần Ngọc Hoàn thuộc thế hệ PCT đầu tiên)
Tại Fletcher Cove Beach Park, California, Sept 7, 2015.
Họp Mặt PCT toàn thế giới kỳ I tại California , tháng 7, 2009.( một ngày trước đại hội)
Thầy Tịnh Đức Tôn Thất Toản và bạn học cũ cùng lớp :
( p-t : - Phan Thanh Hoà
- Võ t Hồng Đoá, Bùi thị Hồng Vân, Lê t Cử, Phan t Thu Liên, Thầy Tịnh Đức, Phạm t Quỳnh Chi, Phan t Thu Hà )
Họp Mặt Phan Châu Trinh toàn thế giới kỳ I Tháng 7 năm 2009 tại California.
Cô Nguyễn Thị Hoàng Oanh & học trò cũ
(t-p : Phan t Thu Liên, Tạ Minh Nguyệt, Cô Nguyễn Thị Hoàng Oanh, Nguyễn diệu Liên Hương, Phan t Thu Hà , chị Trương Thị Phi Ánh, thân hữu )
Họp Mặt ở Đà Nẵng ( 1989 )
( P-T : - Ba Mẹ của Huỳnh thị Thương
- Điềm, Huỳnh t Thương, Nguyễn t Thêm , Lê t Quý Phẩm, Thầy Trần Đại Tăng, Châu t Yến Loan,Đỗ Thế Phiệt, Nguyễn Văn Tham, Bích.
- Nguyễn Thiếu Dũng, Cao Ngọc Trãn )
Họp Mặt PCT Ngày 4 tháng 2 năm 2018 tại California.
Cô Nguyễn Thị Hoàng Oanh (đã mất ) và học trò cũ.
(t-p : Cô Nguyễn Thị Hoàng Oanh, Hồng Đoá , Bích Đào và Phan Thanh Hoà )
PCT Đà Nẵng, năm 1958
t-p : - Cô Đặng thị Liệu ( đã mất), Cô Lê khắc Ngọc Quỳnh
- Cô Chín (Bà Trần đình Chín,đã mất ), Cô An Hà Châu( t-p : Võ Thiệu, Đào Bạch Thạch, Huỳnh t Phú, Phan t Thu Hà, (?), Võ t Hồng Đoá,Ngô Phước An, Phan t Thu Liên, Đinh t Kim An )
Thầy Trần Đại Tăng (1937 - 06/08/2015 )
( Thầy Trần Đại Tăng,Đà Nẵng, ngày 24 tháng 10, 2005 )
Cô Nguyễn thị Hoàng Oanh ( 1937-1/1/2024 )
Cô Hoàng Oanh , ngày Họp Mặt Phan Châu Trinh toàn thế giới kỳ I tại California, tháng 7/2009)
t- p : Đỗ Anh Tiến , Lương Mậu Cường ( đã mất ), Bùi t Hồng Vân, Nguyễn Phúc ( ảnh của PN )
Thầy Nguyễn Bá Việt ( Sài Gòn, tháng 5, 2001 )
Đà Nẵng , năm 1961
Trần thị Ngọc Trai -Trần thị Ngọc Tuý , Trần thị Ngọc Bích
Bãi biển Nha Trang, Hè 1961 Ngọc Tuý ,Ngọc Bích ,Ngọc Trai
(Hai chị Ngọc Trai & Ngọc Bích : thế hệ PCT đầu tiên. Ngọc Tuý : thuộc PCT nk 1956-1963)
Họp Mặt của cựu học sinh Phan Châu Trinh & Hồng Đức tại Toronto, ngày 27 tháng 7, 2008.
Cô Lê khắc Ngọc Quỳnh (ngồi chính giữa hàng thứ hai )
Họp Mặt của cựu học sinh Phan Châu Trinh & Hồng Đức tại Toronto, mùa Hè 2012 ( Ảnh của BVT )
Thầy, Cô Nguyễn Đăng Ngọc .
( Phía sau, t-p :Minh Nguyệt Bích Đào, Quỳnh Chi,Liên Hương,Diệu Lan ; ảnh của PQC)
Họp Mặt Kỷ niệm 50 năm thành lập trường Trung Học Phan Châu Trinh Đà Nẵng, tháng 11,2002 tại California.( t-p : Nguyễn Ngọc Ái, Huỳnh t Phú, Phan t Thu Hà, Nguyễn diệu Liên Hương, Phan t Thu Liên, Võ t Hồng Đoá, Trịnh t Diệu Lan, Nguyễn Tuấn.
Sư Tịnh Đức Tôn Thất Toản, Ngô Phước An .)
( t-p : - hàng đứng : Phan văn Gà ,(?),(?),(?), thầy Đặng Như Đức , thầy Nguyễn Thanh Trầm, (?), (?), Kim Dung, Nguyễn Tuấn
- hàng ngồi : Lê t Bạch Nga, Ngô t Phước Hạnh, (?), Nguyễn diệu Liên Hương, Võ t Hồng Đoá.)
( Ảnh trong “ Trường Xưa 2, năm 2017, Kỷ yếu cựu học sinh PCT Đà Nẵng, nk 1956 - 1963 )
Ảnh 1 : t-p :Trần thị Ngọc Tuý, Lê thị Ngọc Lâm
Ngày Đệ Lục Phan Châu Trinh, niên khoá 1957 - 1958
t-p :Nguyễn diệu Liên Hương, Trần thị Ngọc Tuý,.Lê thị Ngọc Lâm ( phía trước )
Trần thị Ngọc Bích ( 1939 - 2023 )
chị Ngọc Bích, thuộc thế hệ PCT đầu tiên
Họp mặt tất niên tháng 1/1964 Đệ nhất A ( PCT 1963-64 )
T-P: Hàng trước : Trần t Nga, Châu t Yến Loan, Võ t Hồng Đoá, Nguyễn t Em, Nghiêm t Kim Ngân, Tôn nữ Như Hảo, Đào t Thái, Huỳnh t Phú
Hàng sau: Phan t Thu Liên, Hồ t Minh Châu, Phan t Thu Hà, Nguyễn t Ái, Đặng t Thành, Lưu t Lựu
* Ngô tất Thẩm và Nguyễn Quang Trung ( người cầm mặt nạ con cọp )
1/ t-p : Thầy Tịnh Đức Tôn Thất Toản và bằng hữu.
- hàng đứng sau : Phạm t Quỳnh Chi, Võ t Hồng Đoá, Phan t Thu Liên, Huỳnh t Phú, Phan Thanh Hoà, Phan t Thu Hà.
2 / - Trịnh t Diệu Lan, Bùi t Hồng Vân , Lê t Cử, Huỳnh t Phú, Võ t Hồng Đoá, Phạm t Quỳnh Chi
- Phan t Thu Liên, Nguyễn diệu Liên Hương, Phan t Thu Hà.
Họp Mặt các trường Trung Học Đà Nẵng tại California ( July 4th 2001 )
1/ Thầy cựu Hiệu trưởng PCT Nguyễn Đăng Ngọc và học trò cũ t-p : Ngô t Phước Khánh, Phạm t Quỳnh Chi, Lê văn Cần.
2/ Cô Phạm Bội Hoàn, thầy Trần Hữu Duận, cô Nguyễn thị Hoàng Oanh, cô An Hà Châu , Phạm t Quỳnh Chi, (?).
3/ t-p : Lâm Xuân Phong, Nguyễn t Xê, Trịnh t Diệu Lan, Phạm t Quỳnh Chi, Nhạc sĩ Trần Nhật Ngân, Sư Tịnh Đức Tôn Thất Toản.
Họp Mặt Trung Học Đà Nẵng tại California ( July 4th 2001)Cô Phan Mộng Hoàn ( hàng đầu từ phía trái )
Họp Mặt tại Đà Nẵng ngày 11 tháng 8, 2002 .
t-p :- Hàng ngồi :Huỳnh t Thương, thầy Trần Đại Tăng, Cao Ngọc Trãn, (?)
- hàng đứng :Nguyễn Văn Tuyến, Ngô thế Phiệt, Mai Gia Kim Tri, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Văn Tham, Võ Hoà , Bích
Họp Mặt bằng hữu cũ ( Đà Nẵng năm 2000 ; ảnh của Cttn PH )
t-p :- hàng ngồi : Thái, Phạm t Tuyết Nhung, Công tằng Tôn Nữ Phương Huệ
- hàng đứng :(?), Lộc, Phụng Hồng , Lê t Hỷ, Hoàng t Vụ, …..(?)
Trường PCT, tháng 10,2005
Họp Mặt của cựu học sinh PCT liên lớp 1967 -1974 ,( năm 2000 tại ĐN ) có được sự hiện diện của các Giáo sư cũ :
Các Thầy Lê Long Viên, Hà Công Bê ,Trần Đại Tăng , Hoàng Bích Sơn, Trần Trọng Huấn, Lâm Sĩ Liêm và hiền thê .
( Ảnh của Nguyễn Thế Hùng, Toronto ( cựu học sinh lớp 12B4, PCT 1973-74)
3/ trong sân trường xưa
Ảnh 2 : T-P : Châu t Yến Loan , Nguyễn t Ái ( Thuỳ An ) , Lưu t Lựu, Võ t Hồng Đoá,Đào t Thái ( Kim Hài ), Nguyễn t Em, Đặng t Thành (Đan Thanh ), Huỳnh t Phú, Nghiêm t Kim Ngân, Tôn Nữ Như Hảo, Trần t Nga.
Ảnh 3 : T-P : Hồ t Minh Châu, Phan t Thu Hà,Tôn Nữ Như Hảo, Phan t Thu Liên, Nghiêm t Kim Ngân, Nguyễn t Em, Võ t Hồng Đoá, Trần t Nga .
Đại Hội Toàn Thế Giới Kỳ V, California 9 tháng 7 năm 2023
Cựu học sinh Phan Châu Trinh đồng hát bài “Hiệu Đoàn Ca Phan Châu Trinh.” (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)
Ban tổ chức tặng hoa cho các cựu giáo sư Phan Châu Trinh. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)
Ông Võ Văn Thiệu (trái) và ông Phan Ứng Thời. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)
Ông Trương Công Lập (trái) và ông Huỳnh Tuấn. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)
1 / Lớp 10B1 PCT, niên khoá 1973-74
2/ Cô Phan Mộng Hoàn và học sinh 8B3 , 15 năm sau gặp lại năm 1986
( sau lưng Cô MH là Sơn Lai,Sơn Lồi,Ngọc Toàn…
cạnh Cô là Ng.Thế Dung, Trần Công Đức, Lê Công Tâm )
Họp Mặt Liên Trường Đà Nẳng - 2019
Thầy Hiệu trưởng Ngô Văn Chương và nữ sinh Đệ Nhị A PCT ( nk 1962-63 ) , tại trại Hè toàn trường cuối niên khoá 1962-63.
Just found from Archive
Nhóm bạn Đệ tứ 2 , nơi bờ sông Hàn, trước khi nghỉ Hè 1961 ̣( Ảnh của PTD )
Lớp Đệ tứ 2 (nk 1960-61 ) trước cổng trường PCT, ngày cuối năm học. (Ảnh của PNC )
Lý Tuyết Ánh , trong đêm Liên Hoan tất niên của trường Phan Châu Trinh, 1955
( Hình trong album kỷ niệm của hai chị Ngọc Trai & Ngọc Bích)
Lý Tuyết Ánh, Đà Nẵng 1955
Thanh Thảo, Đà Nẵng 29 tháng 5,1956
( Hình trong album kỷ niệm của hai chị Ngọc Trai & Ngọc Bích)
Thầy Trần Ngọc Quế (x) và lớp Đệ tứ 2, PCT ngày cuối niên khóa 1960-61
Lớp Đệ tứ 2 PCT niên khoá 1960-61, ngày cuối năm học.
Lớp Đệ ngũ PCT nk 1953-54
Trần thị Ngọc Trai lãnh phần thưởng Danh dự ,lớp Đệ lục
Trại Hè toàn trường PCT tại Lăng Cô, Hè 1958
Lễ Quốc Khánh 26-10-1960 Việt Nam Cọng Hoà
x : Cô Hoàng Mộng Liên và các nữ sinh hoá trang trên xe hoa PCT:
Trái sang phải :Hàng trước : Ngô Vương Hoàng ( người thứ ba)
Hàng sau :Nguyễn thị Phượng ( bà Triệu Ẩu )
Trần thị Hà ( bà Trưng Trắc )
Phạm thị Quỳnh Chi ( bà Trưng Nhị)
Nữ sinh PCT trong buổi diễn hành Lễ Hai Bà Trưng , ĐN 1956
Cô Vũ thị Kim Hường và các nữ sinh Đệ thất & Đệ lục PCT, Tết Giáp Ngọ 1954
Liên Hoan tất niên PCT, 1955
Thầy Bửu Thiếc & nữ sinh lớp Đệ tứ PCT du ngoạn Non Nước , ngày 17-2-1955
Trần thị Ngọc Trai (1937 - 2005)
Thầy Cao Huy Hoá và Lớp Đệ Nhất B, PCT niên khoá 1964-1965
Lớp Đệ Nhị B , PCT niên khoá 1966-1967
Lớp Đệ ngũ PCT niên khoá 1953-1954
Ngọc Túy, Bãi biển Nha Trang, ngày về 1965
Ngọc Túy, Saigon 1965
Vườn bách thảo Sài Gòn , 1965 ( hàng ngồi : hai cḥị Ngọc Trai và Ngọc Bích, thuộc thế hệ̣ PCT đầu tiên )
Ngọc Túy, New South Wales / Australia
Chiều thứ bảy, nơi cổng trường Phan Châu Trinh , mùa Hè 1963. ( Ảnh của KQN )
Trại Hè PCT năm 1963
Từ trái qua phải:
Minh Châu, Thu Thảo,Kim Quy,Minh Mận, Cô Kim Thành, (?) ( Ảnh của KQN )
Đệ tứ 2 , PCT nk 1960-1961.Ngày cuối năm học, nơi bờ sông Hàn ,1961 ( Ảnh của PNC )
Từ trái qua phải :
Hàng 1 :
Phan Văn Chín, Phạm Ngọc Chấn,Nguyễn ( hay Trần ? ) Xuân Quang, Nguyễn Văn Quảng, Phan thị Thu Liên, Phan thị Thu Hà, Phạm thị Duyệt, Nguyễn thị Lạc Giao, Hoàng Thu Hồng,Nguyễn Đăng Khoa, Đỗ Ngọc Lệ, Khương Đại Lượng, Đinh Văn Thìn.
Hàng 2 :
Trần Bích Ngang ,Đặng Kim Hùng,Mai Văn Đính ,Huỳnh Sáo
Hàng 3 :
Lê Đình Hải, Mai Xuân Lương, Lê Khả Trính, Nguyễn Thiếu Ưng, Trần Đình Thắng, Huỳnh Lô, Trần Thiệt, (?), Cao Ngọc Trãn
Dệ Nhất A PCT 1963 - 1964
Lớp học đầu tiên của trường Trung học Phan Châu Trinh (1952-1954) tại trường Nam tiểu học Đà Nẵng
PCT 1957-64
PCT 1957-64 - Bãi biển Tiên Sa 64
Đệ Tứ PCT năm 1955
Một cựu PCT 1954-60 ??
Phạm Ngọc Chấn, 1961 (PCT 1957-1964)
Đội bóng rổ và bóng tròn Đệ nhị C, NK 61-62
Đệ tứ 2 ( nk 1960-61) Lần du ngoạn Mỹ Khê 10/1960
Hàng đứng :( từ trái qua phải ) Mai Văn Độ, Huỳnh Mai Tính,Huỳnh Sáo, Trần Bích Ngang (?), Trần Đình Thắng, Trần Khánh Dũng, Thầy Nghĩa , Lê Khả Trính ,Tôn Thất Toản, Cao Ngọc Trãn ( đứng phía sau) Nguyễn Thiếu Ưng ( đội mũ trắng), Đỗ Ngọc Lệ, Lê Văn Chơn, Võ Văn Mại ( đội nón ) , ( ?), Nguyễn Văn Quảng (đội nón ).
Hàng ngồi : ( trái qua phải ) - 5 người ngồi hàng phía sau : Trần Minh Tài ,Đinh Văn Thìn, Mai Xuân Lương, Huỳnh Lô ,Trần (hay Nguyễn ?) Xuân Quang
Hàng ngồi phía trước : Trần Minh Xuyên, Khương Đại Lượng, Phạm Ngọc Chấn, Từ Văn Xin, Lê Tự Rô, Nguyễn Thị Thêm, Phạm thị Quỳnh Chi, Châu thị Yến Loan, Nguyễn Thị Bích Lan, Nguyễn thị Ái, Lê Thị Trang, Phan Thị Thu Hà, Hoàng Thu Hồng, Phạm Thị Duyệt, Phan Thị Thu Liên .
Hình chụp lại trong ĐS 57-64.
Cao Ngọc Trản, bác sĩ mất vì bệnh; Lê Khả Trính, VB Đà Lạt, BĐ Quân, tử trận; Trần Văn Hội, tử trận ;
Trương Công Tránh bị VC tử hình sau 75 vì tham gia trong lực lượng Phục quốc ở Nam Yên (vùng Bà Nà núi Chúa).
Có chút gì thoáng qua mà nhớ mãi
Có chút gì đọng lại chẳng sao quên
Một chút nắng, một chút màu xa vắng
Vẫn mênh mông ngập bóng dáng sân trường
Cô vào lớp, nắng sân trường níu bước
Khắc bóng hình lên bục giảng thân thương
Thầy ngang qua, năm tháng dưới mái trường
Nắng in mãi những dấu chân gắn bó
Và đây đó học trò theo lối nhỏ
Dệt nắng thành muôn điệu dáng yêu thương
Ta bỗng thấy ta, góc nhỏ sân trường
Bâng quơ vội một nụ cười ngập nắng
Có những gì như là màu hoài niệm
Mãi trong ta những năm tháng học trò
Rồi bất chợt đưa ta về nơi ấy
Gặp ngẩn ngơ giữa ngập nắng sân trường.
Đinh Như Anh
Mặt trời lên cao ngang các ngọn thông già, nắng ban mai mát dịu, những áng mây như dải lụa trắng lơ lững trên bầu trời trong xanh, các vòi nước tự động thỉnh thoảng phun lên những vệt nước trắng , rơi đều trên cỏ xanh mịn như tấm thảm trải dài. Hoa hồng, hoa cẩm chướng , lung lay qua từng cơn gió nhẹ, những đàn chim màu đen mỏ vàng nho nhỏ hót líu lo trên cành phượng nhiều hoa. Lâu lắm mới thấy lại phượng vĩ nở hoa đỏ, che kín khoảng sân nhỏ của Hotel ở Mallorca ngoài khơi Tây Ban Nha, tôi nhặt vài cánh phượng, đưa cho các con, kể lại thời học trò nhiều kỷ niệm về mùa hè. Các nữ sinh Việt Nam hay ép hoa phượng vào lưu bút, trao tay viết tạm biệt trong 3 tháng hè, về cùng quê Nội hay Ngoại yên tĩnh vui sống với cảnh thiên nhiên hoa cỏ. “ Sung sướng quá giờ cuối cùng đã đến / Đàn trai non hớn hở rủ nhau về / Chín mươi ngày nhảy nhót ở miền quê / Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ “ ( Xuân Tâm ).
Có thể khí hậu miền nhiệt đới, mùa hạ nóng nên học sinh nghỉ hè 3 tháng, nhưng các quốc gia Âu Châu nghỉ 6 tuần lễ, ở Đức khí hậu lạnh, nắng ấm rất ít nên hè về mọi người thường đi nghỉ, tắm biển các vùng biển Địa Trung Hải.
Mùa hè ở miền Trung trời nóng như lửa đổ, cỏ bị cháy vàng, những cánh đồng lúa khô nứt nẻ, các dòng sông cạn nước, để lộ những nông cát trắng phau, những hàng phượng vĩ nở đỏ một khung trời.
Trưa hè ở Đà Nẵng im lặng trên đường Thống Nhất đến Cầu Vồng nhiều cây cao bóng mát, nhiều ve sầu kêu suốt ngày đêm, thỉnh thoảng vài ba con chim đi kiếm mồi làm ngưng tiếng ve hát. Tuổi học trò mộng mơ, nhạc phẩm bất hủ “ Nỗi buồn hoa phượng “ đã làm rung động, nỗi lòng buồn man mác lúc chia tay mỗi người một phương trời xa...
“ Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn, chín mươi ngày qua chứa chang tình thương, ngày mai xa cách hai đứa hai nơi, phút gần gủi nhau mất rồi, tạ từ là hết người ơi ! Tiếng ve nức nở buồn hơn tiếng lòng, biết ai còn nhớ đến ân tình sâu, trường xưa in bóng hai đứa nay đâu ?...Nếu ai đã từng nhặt hoa thấy buồn, cảm thông được nỗi vắng xa người thương, màu hoa phượng thắm như máu con tim, mỗi lần hè thêm kỷ niệm , người xưa biết đâu mà tìm ...” ( không nhớ tên và tác giả bản nhạc ).
Tại hải ngoại tuổi học trò không có kỷ niệm như lứa tuổi chúng ta trưởng thành bên quê nhà. Nam sinh mặc đồng phục quần xanh áo trắng, tóc phải hớt gọn gàng. Nữ sinh áo dài trắng. Thời gian trôi qua, kỷ niệm của tôi và các bạn xuất thân từ ngôi trường thân yêu đó chỉ còn lại trong ký ức. Người bạn gởi tặng hình trường Phan Châu Trinh, kỷ niệm 50 năm thành lập và sinh nhật thứ 130 của cụ Phan Châu Trinh, nhà cách mạng quê hương xứ Quảng. Thời gian trôi qua 32 năm, các cây phượng trong sân trường có tàng lá xanh nở nhiều hoa, nay có lẽ đã già. Bức tượng bán thân bằng đồng sơn đen của cụ Phan Châu Trinh bên cột cờ tồn tại với thời gian , cùng với lòng tôn kính của mọi người. Trường đã đào tạo nhiều thế hệ tài năng giúp đời. Các nhà văn nổi danh như Phan Nhật Nam,Lệ Hằng, Nguyễn Bá Trạc, Luân Hoán, Trần Gia Phụng, Nguyễn Hưng Quốc, thi sĩ Nguyễn Đức Bạt Ngàn với bài “ Bình minh câm “ được diễn ngâm trên đài BBC...Nhiều thiên tài khác phục vụ trên các lãnh vực khoa học và kỹ thuật ở khắp nơi.
Các anh chị tôi thường nhắc lại vở kịch “ Bỏ trường mà đi “ lúc đó Phan Nhật Nam đóng vai chính. Đúng vậy, chúng ta thật sự bỏ trường mà đi, bỏ cả quê hương xứ Quảng ra đi trong nỗi đau, thương xót ngậm ngùi, không một lời tạ từ. Thân phận người ra đi, trong các hoàn cảnh khác nhau. Sau 29-3-75 phần nhiều các thầy cô không còn tiếp tục dạy.
Đà Nẵng ngày nay dù đổi thay, nhưng những dấu chân kỷ niệm vẫn in đậm trong ký ức chúng ta. Các con đường quen thuộc Lê Lợi, Thống Nhất, Quang Trung, Hoàng Diệu v..v...đã đi qua trong dòng đời với những ngày mưa nắng, chiếc phà sang sông trên sông Bạch Đằng nước vẫn xuôi dòng về biển cả. Những trưa hè nóng bụi, những chiều mưa lạnh đi qua cầu “ Đờ lách” ( De Lattre ) trong cơn gió heo may.
Học sinh Phan Châu Trinh “ hào hoa học giỏi “, các kỳ thi tú tài thường có kết quả cao nhất, so với các trường Tại Đà Nẵng. Kỷ niệm những giờ nghỉ học đứng ở tiệm sách Việt, ngã tư Lê Lợi Thống Nhất trêu nữ sinh các trường Phan Thanh Giản, Nguyễn Công Trứ, Bán Công, Bồ Đề...thường đi ngang qua đường Lê Lợi. Các em Phan Thanh Giản, mặc áo dài trắng hay màu xanh da trời, dễ chịu trong những ngày nắng gắt, đi ngang Phan Châu Trinh, nón lá che nghiêng vì e lệ, mắc cỡ bị đám đông nam sinh đứng làm “ hàng chào “ và trêu như thi sĩ Thu Nhất Phương với những dòng thơ ngọt ngào ,man mác : “ Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón / Chiều mùa thu mây che có nắng đâu / Nắng sẽ làm phai mái tóc xanh mầu/ Sẽ làm khô làn môi em dịu ướt.. Nếu nghiêng nón có nghĩa là từ khước / Thì mười ngón tay em sao bỗng cuống quyít đan nhau / Nửa vầng má em bỗng thắm sắc hồng đào / Đôi chân bước...anh nghe chừng sai nhịp “.
Tuổi học trò thật đẹp mơ mộng và thích vui chơi hơn làm chính trị. Bãi trường có dịp đi chơi Ngũ Hành Sơn, tắm biển Mỹ Khê, đi Túy Loan ăn mì Quảng, đi Hội An ăn cao lầu...Các giai đoạn biến động miền Trung, học sinh ý thức chính trị hời hợt đôi khi bị xách động xuống đường...Có lần bị ăn lựu đạn cay, bởi vì thiểu số học sinh quá khích ném đá tấn công Cảnh sát Dã Chiến.
Biến động chính trị đi qua, mái trường thân yêu được trả lại cho tương lai tuổi học trò. Những sáng đi học trên đường Hoàng Diệu, anh em tôi thường gặp thầy Nguyễn Văn Xuân ( nhà văn ) Hội trưởng Hội Khuyến Học, mùa đông luôn mặc áo khoác dài , đội mũ két. Thầy Phạm Thế Mỹ (nhạc sĩ ) cũng như thầy Thể, hiệu trưởng trường Bán Công, đi dạy luôn luôn chở theo ái nữ rất đẹp. Chúng tôi tinh nghịch chạy Honda chậm chậm sát sau, bẻ các cành phượng hay hoa giấy màu tím để trên cặp...., nhưng các em e lệ sợ thân phụ không dám nói !
Mái trường xưa ấp ủ tuổi học trò, nhiều giáo sư trùng tên nhưng khác họ. Các Thầy : Tôn Thất Dương Kỵ dạy Pháp văn, Nguyễn Ngọc Kỳ dạy Anh văn. Bùi Tấn dạy Toán, Trần Tấn dạy Pháp văn.
Thầy Trần Tấn đeo kính cận nặng độ, thầy thương học trò như con. Tôi không thể quên buổi sáng thứ Hai, mặc đồng phục trắng, lớp tôi đến phiên kéo cờ và hát quốc ca, nhưng hát yếu xìu, không hùng hồn chút nào. Học sinh tuần tự vào lớp hai giờ đầu Pháp văn, trên hành lang các thầy cô đi đến từng lớp. Thầy Trần Tấn vào chúng tôi đứng dậy chào, thầy Lê Long Viên , Tổng giám thị cũng đi vào, trên tay cầm con roi dài, nói với thầy Tấn :
-“ Kiểm soát lại học sinh nào không thuộc Quốc Ca, cả lớp hát không ra hồn gì hết. Quốc ca Quốc Hồn Quốc Túy của dân tộc Việt Nam không thuộc sau nầy làm được gì hữu ích cho Quốc Gia ?
Thầy bảo chúng tôi đứng lên và hát lại Quốc Ca. Chúng tôi đứng nghiêm trang hướng về bảng đen hát thật lớn, thầy bảo :
“Hát như rứa tạm được “
Cho phép chúng tôi ngồi xuống, nhưng thầy gọi 3 anh chàng ngồi dưới lớp từ trường tư nhưng loại giỏi được chọn vào học, không thuộc Quốc Ca chỉ nhấp miệng, làm sao tránh được “ hung thần “ Tổng Giám thị. Thầy gọi 3 anh chàng ấy đứng lên không hát được, bị phạt roi,bắt nằm lên bàn đánh mỗi người 3 roi. Thầy Viên ốm gầy, nhưng sức lực phi thường, đường roi của thầy vun vút, anh nào anh nấy nhăn mặt như khỉ ăn ớt, đưa tay xoa nhẹ chỗ đau, xong trận đòn chưa tha còn bảo :
-“Về nhà học lại cho thuộc, sáng mai đến văn phòng trình diện “
Thỉnh thoảng thầy và thầy Phương kiểm soát đồng phục, bảng tên, tóc dài bị rầy. Năm Đệ Nhất tạm coi như đã trưởng thành, “ ba gay “, để tóc dài theo phong trào Hippy, đôi khi thầy lấy kéo hớt ngang mai, không phát giấy hoãn dịch. Kỷ luật của trường nghiêm minh.
Tưởng niệm các Thầy đã mất, nhớ lại năm 1967 thầy Trần Vinh Anh làm Phó chủ khảo kỳ thi tú tài bị một thí sinh đâm chết. Quan tài được mang về Đà Nẵng, đám tang nhiều học sinh đưa tiễn thầy đến nơi an nghỉ cuối cùng. Cái chết của thầy gây xúc động mạnh, báo chí lên án : nền Giáo dục bị lung lay , Đạo đức gia đình và xã hội suy đôì ...
Thầy Trần Tấn dạy Pháp văn. Chúng tôi học với thầy những giờ học khó quên, in sâu vào ký ức...Thầy Tấn mở sổ điểm gọi đọc bài récitation, nhưng có bạn không thuộc. Dãy bàn đầu bên dưới bục của thầy ngồi, Thúy ngồi bên tôi, chui xuống bàn mở cuốn tập có bài đó, cho mấy bạn không thuộc bài, nhìn đọc ngon lành không thiếu một chữ. Mỗi khi dò bài học sinh đứng quay mặt nhìn vào thầy trả lời, ít khi nào nhìn xuống phía bạn học. Bất thình lình thầy đứng lên nhìn thấy Thụy ngồi dưới bàn. Thầy không rầy Thụy, nước mắt thầy chảy dài hai bên má nhăn nheo và nói :
- “ Các em làm như rứa là lừa thầy, sau này các em ra đời giúp ích được gì cho xã hội, hay lại tiếp tục lừa dối đời nữa hay sao ? Các em học cho tương lai các em , không phải học cho thầy...”
Thầy đi lên, đi xuống, trong giọng nói trầm buồn, cả lớp yên lặng không một tiếng động. Tôi đứng lên :
-“ Thưa Thầy, chúng con xin lỗi làm phật ý thầy, mong thầy tha thứ...”
Thầy đưa tay cho tôi ngồi xuống, đi lên bảng bảo các em mở tập học chương khác...Tình yêu của thầy đối với học trò như con, từ đó chúng tôi hối hận, ngoan ngoãn học chăm không vi phạm kỷ luật. Chúng tôi học siêng năng nên kỳ thi đậu hơn nửa lớp, lời dạy khoan dung của thầy chúng tôi khó quên.
Thầy Nguyễn Lương Hiền cao gầy, mùa đông mặc áo len dày tới cổ, đeo kính đen cả ngày lẫn đêm, thầy ít khi nào ngồi trên bàn giáo sư, thường đứng hay ngồi trên bàn đầu học sinh, giảng bài nói về Đạo đức, Tâm Lý. Luận lý. Có nhiều đề tài học sinh được góp ý tranh cải về “ Thuyết Tiến Hoá” của triết gia Darwin Charles ( 1809-1882 ), tác phẩm Nguồn gốc các loài ( De l’origine des espèces au moyen de la sélection naturelle ) . Chúng tôi hăng say tranh luận đến hết giờ chuông reo tạm kết thúc. Có lúc thầy bị cảm khan tiếng nhưng cố gắng giảng cho kịp chương trình học cho mùa thi .
Thầy Trần Công Kiểm dạy Công dân. Tôi còn nhớ mãi thầy nói về luật cung và cầu trong kinh tế học thao thao bất tuyệt. Thầy Quế dạy Việt Văn, mất trong trại cải tạo. Biết được tin giới hạn các thầy trên đã mất, học trò mỗi người một phương trời xa, riêng tôi xin đốt nén nhan lòng, hướng về quê hương, tưởng nhớ đến các thầy quá cố.
Trường Phan Châu Trinh nhiều lớp, nhiều giáo sư, tôi học với các thầy Trần Gia Phụng, Đỗ Viết Lê ( Sử Địa ), Nguyễn Thanh Trầm, Kim Cương ( Vạn vật ), Trần Thông, Trần Đình Quân, thầy Quế ( Việt văn ), Tạ Quốc Bảo, thầy Huấn, Nguyễn Ngọc Kỳ ( Anh văn ). Mỗi thầy một phương pháp riêng. Thầy Huấn muốn học thuộc ngữ vựng ngày học năm chữ,nhiều năm sẽ thuộc cả cuốn tự điển, thầy Bảo cần học thuộc các mẫu câu, thành ngữ, văn phạm, thầy Kỳ muốn hằng ngày viết nhật ký bằng tiếng Anh...nhưng rất tiếc thiếu chương trình luyện giọng, nghe và hiểu.
Dạy toán thì thầy Nguyên, thầy Đức, thầy Hào. Muốn giỏi tóan phải học thuộc công thức , làm hết bài tập ứng dụng nhiều sách. Giờ Vạn vật là môn học tôi không thích , nhưng thầy Nguyễn Thanh Trầm làm cho môn học hấp dẫn, về cơ thể con người thầy nói : “Cái lưỡi nguy hiểm nhất, tất cả sự việc xảy ra đều do cái lưỡi...Đàn bà là sinh vật nguy hiểm nhất, nhưng quả đất này không có đàn bà sẽ khô cằn hơn...Đôi mắt của Tây Thi cũng nguy hiểm ‘ nhất cố khuynh thành, tái cố khuynh quốc “.
Thầy Trần Thông với hai câu trong bài cổ văn “ Đói lòng ăn nửa trái sim uống lưng bát nước đi tìm người ( thương ) yêu”. Thầy dẫn chứng tình yêu trong thi ca bình dân, tình yêu phát xuất từ rung động bẩm sinh của con người, tạo dựng hạnh phúc gia đình, xã hội...Nhưng thầy Thông tôn thờ “ chủ nghĩa độc thân “ , đi chiếc xe Velo solex, có lẽ thầy muốn sống lập dị, xe Honda thời đó không đắc lắm. Giai phẩm Như giọt mưa xuân do thầy làm cố vấn qui tụ nhiều cây viết học trò rất sáng, nhiều hi vọng góp mặt vào làng văn.
Thầy Nguyễn Đình Trọng ( nhà thơ Đông Trình ), nhà thơ phản chiến. Thơ của thầy gây xúc động tuổi trẻ, trong giai đoạn chiến tranh đêm đêm nghe tiếng đại bác với ánh hoả châu. Sau cuộc chiến không biết thầy còn làm thơ nữa không ?
Thầy Trần Đình Quân còn là nhạc sĩ. Ngoài giờ dạy, thầy sinh hoạt với nhóm du ca “ Về nguồn ‘, trong bộ bà ba màu nâu, hát cho người, hát cho quê hương ! Nhiều nam nữ học sinh Phan Châu Trinh và Nữ Trung học theo đoàn du ca đó. Cuộc chiến chấm dứt, vết thương chưa kịp khép kín, trại tập trung cải tạo rộng mở, tiếng hát của thầy chìm vào lãng quên. Thầy Trần Đại Tăng dạy Toán cũng là một thi sĩ làm thơ rất hay.
Báo Người Việt California viết về sinh hoạt Hội ái hữu Liên trường Quảng Nam Đà Nẵng tại California. Được biết thầy Tạ Quốc Bảo làm M.C điều khiển chương trình sinh hoạt. Thầy Bảo dạy Anh văn, thầy dự định xuất bản cuốn văn phạm Anh văn năm lớp Đệ nhị, tôi phụ nhận quay bài học, giúp thầy phân phát cho các bạn. Sau này ở Huế về gặp thầy mở tiệm sách trên đường Hùng Vương gần Chợ Cồn. Tôi mua vài cuốn sách, thầy cho giảm giá tiền, thông cảm đời sinh viên nghèo , tình thầy trò quý nhau, sau này thầy có xuất bản các tác phẩm ấy không ?
Nhận Đặc san Đất Ngũ Phụng của Hội Ái Hữu Quảng Nam Đà Nẵng tại Houston, có địa chỉ thầy Trần Gia Phụng, tôi liên lạc mua sách và điện thoại xin phỏng vấn , viết bài giới thiệu các tác phẩm của thầy , trên các báo tại Âu Châu và Dân Chúa Úc Châu. Từ 1996 đến nay, thầy xuất bản 9 tác phẩm sử học, đóng góp vào kho tàng văn hóa Việt Nam. Sách thầy viết giúp tôi ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam. Các bản thảo vài bài tôi viết gởi đến thầy xin góp ý.
Một người bạn cho biết hè 2003 sẽ có cuộc họp mặt tại nhà cô Phan Mộng Hoàn ở San Jose ? Người bạn đó thường về Đà Nẵng , gặp thầy Lê Long Viên vẫn còn hút “ ống vố “ như xưa, thầy Nguyên dạy Toán chuyển qua trường Sao Mai.
Cựu học sinh Phan Châu Trinh tốt nghiệp Đại Học Sư phạm Huế về lại dạy trường Phan Châu Trinh rất nhiều. Tại Đức nhiều học sinh Phan Châu Trinh du học thành công, nhưng sống tản mát khắp các tiểu bang, gặp nhau rất khó. ( Nhiều bạn trước 1975 hoạt động trong “ Hội Đoàn Kết “, thân cộng sản, riêng tôi, tôi yêu thích chủ thuyết “ Dân Quyết “ của Cụ Phan Châu Trinh, không thích Karl Marx và Lenin ).
Viết về kỷ niệm thời học trò 32 năm về trước không tránh được thiếu sót, kính mong quý thầy cô, bạn hữu cảm thông, cùng sống lại những ngày trong quá khứ, một thời vàng son, đáng yêu và đáng nhớ. Những kỷ niệm về mái trường thân yêu ngày xưa như những tia nắng hạ sưởi ấm chúng ta trong những ngày xa xứ.
Nguyễn Quý Đại ( Germany )
( “ ĐS Kỷ niệm 50 năm thành lập Trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng. 29 tháng 11 năm 2002, Little Saigon, Hoa Kỳ “ )