
We have 85 guests and no members online

Tay cầm viên phấn trắng
Xin bẻ gãy làm đôi
Làm dấu chấm một đời
Quẩn quanh bên bục giảng
Xin cúi đầu chào bạn
Xin vẫy tay chào em
Chào thế sự bon chen
Tôi bây giờ đứng lại
Vô lẽ cứ đi mãi
Đời phải có điểm dừng
Con sông có khúc quanh
Con người có thời vận
Về ngắm trăng cố quận
Về lang thang cố hương
Tìm nhặt ánh tà dương
Những chiều vàng rơi rụng
Vo tròn ân nghĩa mỏng
Bóp méo hoài vọng con
Vẽ vời chút phấn son
Cho hồng kỷ niệm cũ
Ngày đắp chăn nằm ngủ
Tối đốt đèn làm thơ
Khuya đọc lại người xưa
Sớm yến oanh thỏ thẻ
Xin giả từ viết đỏ
Xin giả từ bảng đen
Có một thời để quên
Cho một thời để nhớ
Tay bóp viên phấn vỡ
Làm dấu chấm cuộc đời
Mai khoác áo rong chơi
Lợi danh xin khép lại.
2001
Trần Hoan Trinh,
( “ Tiếng Chim Ngoài Cửa Lớp “, Đà Nẵng 2002 )

“ Nghìn Trùng Xa Cách “, PCT Đà Nẵng của tôi , nay đã nghìn trùng xa cách thật rồi, kể từ biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đến ngày nay, hơn 45 năm sau vẫn nghìn trùng xa cách ...
Trường xưa đã thật xa, bạn bè mỗi người một phương trời cách biệt. Một cuộc chia tay, chỉ có một lần trong đời mà trôi theo lịch sử nước nhà. Có người ra đi đến tận Âu châu, Mỹ châu, Úc châu...làm lại cuộc đời bằng hai bàn tay trắng, có người ở lại quê nhà tiếp tục sống...rồi tất cả đều bắt đầu sống với “ Nghìn Trùng Xa Cách, người đã đi rồi “.
Mà thật vậy, kể từ tháng 5/1975 chúng ta đã xa nhau vì thời cuộc. Rất tiếc không thể gặp nhau như ngày xưa, cùng nhau vui chơi dưới mái trường PCT thân yêu, , mà chính ở nơi này đã cho chúng ta có được những người bạn thân, trai cũng như gái. Và cũng nhờ học chung nên ai cũng có bạn bè trai gái, tình bạn, tình cảm, tình yêu học trò thiêng liêng và trong sáng, làm mình lớn hẳn lên, e thẹn, tâm hồn tự nhiên lãng mạng, thích đọc sách, làm thơ biểu lộ tình cảm học trò 12, 13, 14, 15…tuổi mới lớn lên. Ban đầu mới quen rụt rè, đỏ mặt, lúng túng trước bạn gái, rồi theo năm tháng trở nên thân thiết, yêu thương, tâm hồn trở nên lãng mạng tuổi học trò quá đẹp lúc nào không hay !
Cũng nhớ mỗi lần sau giờ học, chiều về thường rủ nhau đi tắm biển Thanh Bình, hay đi ăn kem Diệp Hải Dung, ăn chè ở Ngã Năm, dạo mát, thơ thẩn bờ sông Hàn đến Cổ Viện Chàm...Có lúc đạp xe cả đám trai gái chở nhau, líu lo đi chùa bà Quảng, Non Nước, về quê bạn ở Cẩm Lệ, Hoà Vang...và có lúc giữa bạn trai và bạn gái, tình yêu đến từ từ không biết đã vào trong tim tận bao giờ nữa.
Rối năm tháng trôi qua, sau khi đậu Tú tài 2 , mỗi người đã trưởng thành. Có bạn gái đã đi lấy chồng, bạn trai đi vào quân ngũ hay đi làm, đi xa Đà Nẵng, vào Sài Gòn hay ra Huế tiếp tục Đại học...Rồi sau 1975 chia tay và “ Nghìn Trùng Xa Cách “ từ đây.
Cũng vì xa cách cả bốn phương trời nên tâm hồn bạn bè PCT có thay đổi và ướt át hơn xưa, trở thành “ thi sĩ ” lúc nào không hay, tập làm thơ gởi cho nhau, thật là một thời rất đẹp.
Chúng ta chỉ liên lạc với nhau qua mail và bao nhiêu thương nhớ bạn bè, bao nhiêu kỷ niệm đẹp thời xưa chỉ được ghi trên các thư từ qua lại chứ ít có dịp gặp nhau.
Tôi cũng có làm thơ gởi bạn bè lúc “ nghìn trùng xa cách “, chỉ biết thổ lộ qua thơ văn và cũng được đáp lại nhiều bài thơ, có bài thơ rất tuyệt vời, nhắc lại kỷ niệm ngày xưa, ngày nay, xin chia sẻ với nhau cho vui. Không ngờ PCT có cô bạn gái, nay ở Mỹ làm thơ hay như vậy...Vô cùng cám ơn tác giả. Tạm giấu tên.
GỞI ANH
Mới đó mà xa mấy chục năm
Qua bao lưu lạc, mấy thăng trầm
Nhìn nhau ngan ngát qua sông núi
Kỷ niệm ngày xưa , lại hóa gần
Sao anh không về thăm cổ tích ?
Lòng em thuở ấy ngủ trong rừng
Bởi anh không đến lay em thức
Để tháng ngày qua , tiếc quá chừng .
Phải chi trái đất đừng quay nhỉ
Ắt chẳng xa vời mấy chục năm
Phải chi trở lại ngày xưa nhỉ
Để lại thương nhau, lại nhớ thầm
Mà nhớ như khi vừa mới lớn
Mà thương hơn cả lúc thương mình
Gởi anh một chút lòng thương nhớ
Em giữ phần em, một mối tình .
Một người bạn PCT
Xin cám ơn tất cả đã chia sẻ với tôi qua bài viết và bài thơ kỷ niệm Một thời PCT Đà Nẵng mến yêu .
Võ Văn Hoàng
15 / 09 / 2020
Aix en Provence, France .
(“ Trường Xưa 3 “, Kỷ yếu cựu học sinh PCT ĐN nk 1956-1963, Đà Nẵng 2020 )

Sáng hôm nay khi thức dậy làm thơ
Anh thấy em trong mơ màng hiền hậu
Trong gíấc ngủ vẫn môi cười rất nhẹ
Tóc xoã đen bờ gối trắng dịu dàng
Có giấc mơ nào đưa em lang thang
Đến một thiên đường kỳ hoa dị thảo
Anh chợt thấy lòng mình run khẽ
Mấy mươi năm anh cho em được những gì
Ngoài long đong vất vả hàn vi
Những giận hờn, ghen tuông vô lý
Anh đã cho em những gì
Ngoài tình yêu mình có...
Sáng hôm nay khi thức dậy làm thơ
Ngoài vườn cây hoàng lan đưa hương ngào ngạt
Có con chim nào trên cành cao
bắt đầu tiếng hót
Anh muốn cùng em chấp cánh bay đi
tìm một góc trời
Nằm ngắm sao khuya
Đợi ánh bình minh chân mây le lói
Nghe trong gió lòng thanh xuân rất khẽ
Bước ban mai theo nắng ngập ngừng
Nghe ngọt ngào hương vị môi hôn
Nghe thanh bình trong từng hơi thở nhẹ
Lòng thanh thản như một thời xa trẻ
Và bình yên trong sương khói trong lành
Có hương thơm của triệu triệu đóa hồng ...
Trần Hoan Trinh
( “ Bỏ Trường Mà Đi “ Thơ Trần Hoan Trinh, Trò Xưa xuất bản tại Hoa Kỳ 2002 )

Sáu mươi năm qua vèo như “ bóng câu qua cửa “ ! Phan Châu Trinh – tên nhà cách mạng chính trị là tên trường thân yêu của tôi.
Năm 1956 tôi ở Sài Gòn ra Đà Nẵng học đệ thất trường Phan Tây Hồ. Đến niên khoá 1957-1958 tôi được tuyển vào Đệ lục trường Phan Châu Trinh. Lúc đó hãnh diện vô cùng vì mình là học sinh giỏi mới vào trường ngang xương như vậy. Được xếp vào lớp 6.4 ( Đệ lục 4 ), thầy Thố là giáo sư hướng dẫn. Khôi “ cán vá “ làm trưởng lớp .( Tiếc rằng khi biết bạn ở Nha Trang thì lại nghe tin bạn đã mất ).
Lên Đệ ngũ, chia lớp theo sinh ngữ chính Anh, hoặc Pháp. Tôi được xếp vào Ngũ 4, lúc này Cô Quỳnh là giáo sư hướng dẫn. Ngọc “ lạc” làm trưởng lớp. Niên khóa 1958-1959, ngoài học vấn tôi được cô Lê Khắc Ngọc Quỳnh ưu ái tôi về văn học và phát hiện tôi có năng khiếu ca hát, diễn kịch. Tôi được cô nhớ đến nổi , tôi chỉ học cô một năm học sau đó ra Huế học, mà mãi đến năm 1982 ( 23 năm sau đó ) cô vẫn nhận ra tôi. Tình thầy trò thật đẹp.
Năm 1957-1958-1959 tôi học ở Phan Châu Trinh hai niên khóa, rồi vì hoàn cảnh phải ra Huế học Quốc Học, rồi đi mãi không về Đà Nẵng, thế mà hình ảnh những người bạn học vẫn luôn luôn hiện hữu trong tôi. Cho đến bây giờ đã trải qua gần 60 năm , tôi vẫn chẳng có thêm người bạn nào khác để thân, để nhớ như các bạn hồi thời đó.
Bạn tôi ngày đó không phân biệt nam, nữ. Ai mà “ ghép đôi ” tôi với ai là tôi chửi, tôi đòi đánh. Tôi không có một cuộc tình với các bạn học của tôi. Không phải tôi tốt lành gì đâu ! Tôi cũng lãng mạng, bay bướm, tình tứ, đào hoa...Nhưng không hiểu sao tôi lại không có người yêu là học sinh Phan Châu Trinh, dù nhiều bạn nữ rất đẹp, rất dễ thương.
Cám ơn các bạn bên trời xa, nhất là Phương Nga ,đã cùng anh em khóa 1956-1963 tổ chức một buổi họp mặt du lịch ôn cố tri tân với nhau ở Đà Nẵng. Tôi xa Đà Nẵng quá lâu nên nhiều lắm cũng chỉ nhớ được khoảng 100 bạn. Phải phục Phạm Ngọc Lâm nhớ cả 200 bạn, với đầy đủ chi tiết lý lịch thân nhân các bạn khoá mình khắp thế giới. Nhờ vậy mà bạn Lâm xứng đáng thay mặt khóa mình họp tại Mỹ 02 lần. Và cũng thật tiếc, Lâm hiện bận liên lạc với các bạn ở bên kia cõi ta bà, làm đại diện khóa đã 03 năm qua.
Ở Đà Nẵng có Hội cùng khóa và Sài Gòn cũng có. Tất cả chúng ta đều quẳng hết lo âu, địa vị, thân thế... Thường xuyên gặp nhau để được gọi tao, mày. Những năm lăn lộn với đời phải mang mặt nạ cho phù hợp với vai trò mình phải diễn trên “ sân khấu Đời “ Khi gặp nhau vứt bỏ cái mặt nạ đó, trở về cái thằng, cái con, như dưới mái trường Phan Châu Trinh ngày nào. Vui !
Bây giờ thời gian tuổi tác, khoảng cách địa lý và hoàn cảnh sống, chúng ta không dễ gặp nhau. Nhưng hãy đừng xa mặt cách lòng. Hãy yêu thương nhau như ta đã yêu thương nhau ngày nào. Không chút tư lợi, tình cảm riêng tư. Đúng nghĩa BẠN.
Các bạn ơi, nếu ai gặp và nhớ Kim Long hãy cứ vui cười thì bạn sẽ trẻ mãi không già dù hàm răng không còn chiếc nào. Nếu bạn không gặp Kim Long, không nhớ Kim Long thì cũng vui lên. Vì nhờ không nhớ Kim Long mà các bạn có khoảng trống để nhớ đến và gặp các bạn khác cùng khóa của trường Phan Châu Trinh chúng ta.
Sài Gòn, ngày 05/6/2017
Nguyễn Kim Long
( “ Trường Xưa 2 ” ,kỷ yếu cựu học sinh PCT nk 1956-1963 )

Chúng tôi thuộc lớp thế hệ học trò đầu tiên của Cô tại trường Phan Châu Trinh, Đà Nẵng, sau khi Cô vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Huế. Nhưng cuối năm học 60-61 , Cô nhận được học bổng sang Mỹ du học, từ đó chúng tôi không còn có dịp gặp lại người thầy của mình. Và sự đời vẫn tiếp diễn những cơn biển dâu kỳ lạ, thách thức dữ dội đối với những tâm sự giang hồ và những cuồng vọng tuổi thanh xuân, mà ai cũng mong mỏi đem cái hùng tâm tráng khí ra đặng thi thố trong thời buổi điêu linh , nhục nhã của quê hương loạn ly.
Kính vong linh Cô,
Một vài năm sau đó, sau ngày Cô du học ở đất Mỹ, chúng em cũng xa trường, mỗi đứa mỗi ngã. Tự thâm tâm của mình cảm nhận được rằng mình đang được thúc đẩy bởi một động lực khó cưỡng, đó là khát vọng chinh phục. Chinh phục tình yêu, chinh phục danh vọng, chinh phục địa vị. Nhưng rồi, nhìn từ góc độ theo hướng này hay theo hướng kia, chúng em như những trẻ con đuổi theo cánh bướm, mỏi mắt theo cánh bướm này rồi đến cánh bướm khác. Như thể rằng cánh bướm là lẽ sống, nên phải đoạ đày cả tâm trí lẫn hình hài của mình.
Có điều dễ thấy rằng sự hiểu biết của chúng em về con đường trước mắt không phải do chính mình đã nhận thấy rõ con đường mình đang đi, mà do dấu vết của nhiều thế hệ trước đó đã đi, dù rằng trong họ có không ít người bước ra khỏi bóng đêm của rừng rậm bằng chính đôi mắt của họ. Họ đã không nhìn thấy những giá trị cao cả của đời sống, và các giá trị đó không cao hơn các nấc thang xã hội ước định.
Hiện thực trần trụi thời chiến tranh, một thời buổi nhiễu nhương, số phận không may phải ngụp lặn mờ mịt vào một lý tưởng xa xôi mơ hồ. Dù biết suy nghĩ hay không suy nghĩ, vẫn luôn luôn có một cái gì đó xô đẩy đời sống đi về hướng này hay đi về hướng khác. Một cái gì đó mang tính quyết định số phận mà ít khi nhận ra được cái ấy là cái gì, dẫu biết đó chỉ là vết tích của cánh nhạn bay qua cuối trời vạn dặm.
Trên một góc nhìn nào đó trong thầm lặng, để nhìn xuyên qua và nhìn sâu vào tinh thể của tồn tại thì thời đại ấy như bóng câu đến rồi đi, cái còn đọng lại như là tồn tại của bóng mờ quá khứ.
Các lớp thanh niên cùng trang lứa lần lượt lên đường theo tiếng gọi núi sông. Vẫn đó đây âm vang ngàn đời câu hỏi sống, chết, ai còn, ai mất ? Bức tranh vân cẩu ấy, cõi nhân sinh ấy là gì ( ? ) bởi nên có tiếng than thở ngậm ngùi :
“ Bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó
Chốn đào nguyên anh khoác áo khinh cừu “
( Bùi Giáng )
Tuổi học trò, lứa tuổi đan dệt và thêu thùa nhiều mộng tưởng hảo huyền, đó là một thứ quà tặng đượm dinh dưỡng mà chất liệu là sự tàn phá, sụp đổ và mất mát. Cộng hưởng cùng nỗi thống khổ phi lý của chiến tranh đau thương dai dẳng, như ngọn lửa đốt cháy những nụ cười, những mơ mộng, hồn nhiên của quá khứ. Đó dường như là sự khởi đầu khoảng trống của hoài niệm. Vả chăng hoài niệm cũng sẽ chỉ là một hiện hữu bất thực trong sự trầm tư lặng lẽ của hư không.
Bẵng đi một thời gian không lâu lắm, chúng em cứ tưởng Cô vẫn còn miệt mài nghiên cứu ở Mỹ, miền đất hứa cho sự phát triển tinh hoa của trí tuệ. Nhưng Cô đã hoàn thành sớm và trở về nước cuối năm 1963 và làm việc tại Viện cao đẳng Phật học, sau này là Viện Đại Học Vạn Hạnh.
Một quyết định lớn trên con đường Đạo hạnh của Cô là vào năm 1964, Cô quyết định dứt trần duyên, cắt tóc xanh qui y tại chùa Hồng Ân ở Huế và được thọ giới Sa Di Ni. Năm 1970, thọ Tỳ kheo ni và Bồ tát giới tại Đại Giới Bàn Vĩnh Gia ở Đà Nẵng. Thời gian này Cô tiếp tục làm giảng sư tại Thiền Viện Vạn Hạnh và giảng dạy tại các Trường cao cấp Phật học, Viện Phật giáo Việt Nam với pháp danh Thích Nữ Trí Hải.
Năm 2003, Cô được cử vào Phó ban khảo hạch Đại giới đàn Thiện Hoa ở Từ Nghiêm và cuối năm này Cô được suy cử Phó Viện Trưởng Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam và Trưởng ban tài chánh.
Ngoài những hoạt động giáo dục hoằng pháp, Cô còn dành nhiêu thời gian cho việc phiên dịch, biên soạn và in ấn kinh điển để giúp Tăng ni, Phật tử có thêm tài liệu nghiên cứu học tập. Về chuyển ngữ có 38 đầu sách, về biên sọan có 14 đề tài. Đối với các sách ngoài Phật học, Cô có 12 tác phẩm , trong số đó có các tác phẩm nổi tiếng được quan tâm rộng rải với độc giả như “ Nhà khổ hạnh và gã lang thang “ ( Pháp, H-Hesse ), “ Bắt trẻ đồng xanh “ ( J-D Salinger ), “ Câu chuyện dòng sông “ (H-Hesse ).
Riêng tập sách “ Câu chuyện dòng sông “ dịch từ bảng Anh ngữ Siddhartha, được nhà xuất bản Lá Bối phát hành đầu tiên 1965-1966. Nhưng vì một lý do nào đó mà năm 2003 Cô lại viết một bài tổng quan dài 40 trang đăng trong sách Nguồn mạch tâm kinh với lời bạt : “Câu chuyện dòng sông “ trước hết là một tác phẩm văn học nghệ thuật, cho nên bất cứ một phân tích nào về phương diện tư tưởng đều mang ít nhiều tính chủ quan do người đọc tự gán cho nó. Bởi thế những ai phê phán sách này phỉ báng đạo Phật hay đề cao đạo Phật, đều không nhằm chỗ ”...
“ Trọn tác phẩm của Herman Hesse là lời thánh ca bay vút lên chín tầng trời, vọng lên nỗi đau đớn vô cùng của kiếp sống và lòng hướng vọng nghìn đời của con người, dù bơ vơ bất lực mà vẫn luôn luôn tha thiết đi tìm giải thoát ra ngoài mọi giới hạn tầm thường của đời sống tẻ nhạt ...Tất cả tác phẩm đều nói lên niềm cô đơn tâm linh của con người thời đại, nỗi thao thức triền miên của những tâm hồn khát khao đi tìm một chân trời mới cho mình và nhất là những nổ lực vô hạn để vươn lên mọi ràng buộc của thân phận làm người “.
Quả là một điều hơi lạ vì thời gian kể từ tác phẩm được Cô dịch và bài tổng quan là gần 40 năm. Có lẽ trong tác phẩm văn học đó có nhiều điều được nói , chất liệu để nói có thể nghe nhận bởi nhiều người, nhưng trong tận cùng điều được nói là một thế giới của vô ngôn, của im lặng. Nó cũng mang màu sắc như khi ta đuổi bắt ảo ảnh. Có thể là như vậy.
Hồi tưởng lại, lớp thế hệ chúng em Cô dạy, lúc bấy giờ Cô quá trẻ, dáng người nghiêm nghí, bước đi khoan thai và ung dung trong tà áo dài trắng. Trong lớp học, Cô nhìn học trò của mình với đôi mắt rất hoà ái. Thỉnh thoảng trong những lần hướng nhìn qua khung cửa lớp, đôi mắt Cô lại thoáng một chút mông lung như khói trầm. Nhưng chắc có mấy ai biết được qua cái nhìn kia mà thấy được bóng dáng của huyền mộng phù sanh và đời người thì : “ Xuân xanh xô cổng chạy dài. Bỏ sương tuyết phủ,phượng đài phía sau “ ( Bùi Giáng ).
Rồi một buổi chiều cuối Đông năm 2003, trong chuyến đi Phật sự ở Phan Thiết cùng với ba em thị giả, trên đường trở về không may gặp tai nạn, Cô đã thâu thân thị tịch lúc 17 giờ 30 ngày 7 tháng 12 năm 2003, hưởng dương 66 tuổi và đã trải qua một cuộc đời tu hành đầy cam go thử thách. Ra đi vội vã như một đóa Ưu Đàm tươi ngát hương chợt bị cơn gió vô thường thổi cuốn vào cõi vô cùng, để bao thương tiếc ngậm ngùi cho kẻ ở lại, trong đó có lứa học trò cũ chúng em, như Thầy Tuệ Sĩ hạ bút :
“Cánh chim vượt qua vũng lầy sinh tử
Bóng nắng rọi lên dòng huyển hóa
Thân theo tro tàn bay
Hoa trắng vỡ trên đại dương sóng cả
Sao trời chợt tắt giữa lòng tay
Sương còn đọng trên đầu cây lá
Đến rồi đi chập chờn nước lững vơi đầy
Heo hút bờ hoang ảnh giả
Người sống mỏi mòn trong tiếc nhớ không khuây “
Đặng Công Hanh

( Trường Xưa 3, kỷ yếu cựu học sinh PCT ĐN nk 1956-1963 )