
We have 85 guests and no members online

Học trò xứ Quảng nổi tiếng thông minh. Trí thông minh này biểu lộ rất rõ rệt trên lãnh vực văn chương . Đa số nhà văn, nhà thơ Việt Nam xuất thân từ Quảng Nam. Giỏi văn tức là yêu tiếng Việt. “ Yêu tiếng nước tôi “ thăng hoa thành lòng yêu nước. Lịch sử Việt Nam là lịch sử của những sát phạt đẫm máu và bất tận do thực dân quốc tế, đặc biệt là thực dân Tàu , chủ mưu.
Thêm vào đó Quảng Nam là quê hương của “ Chó ăn đá, gà ăn sỏi “ . Đào tìm cơm áo cho bản thân và cho gia đình là cả một vấn nạn lớn lao và dài thăm thẳm . Vấn nạn vừa kể đi kèm với những phiền muộn xoáy tim óc trước thân phận ảm đạm của Việt Nam trên dòng sử đã làm cho người học trò Quảng Nam không hài lòng đối với bất kỳ loại hiện tại nào . Đó là tâm lý bất mãn hiện sinh. Biến thái của bất mãn hiện sinh là tính thích hài hước và ưa quậy phá. Nói một cách chung nhất , tánh khí của người học trò Quảng Nam có thể được diễn tả bằng bài toán cộng như sau :
Tính thích hài hước, ưa quậy phá + Tư chất thông minh + lòng yêu nước thiết tha + tâm lý bất mãn hiện sinh .
Với tính khí đặc biệt như vừa kể , học trò Quảng Nam khi bước chân vào ngưỡng cửa trường Trung Học Phan Châu Trinh phải qua một cuộc thi tuyển nhiều chông gai. Sau đó, phải khép mình trong khuôn khổ kỷ luật nghiêm minh của nhà trường . Cuộc chung sống này chẳng khác nào cuộc hội ngộ giữa nắng hè hực nóng với băng giá của mùa đông tê cóng. Từ đó, đời sống của người học sinh trường Phan Châu Trinh không thể không đối diện với vô vàn “ lúng túng “. Lúng túng không có nghĩa là bối rối khi không thể tìm ra đáp số cho một trở ngại trong đời sống . Lúng túng ở đây là tình huống con người phải chìm nổi , phải điêu đứng giữa thắng và bại, giữa tin yêu và nghi ngờ, giữa cao vọng và tuyệt vọng , giữa hài lòng và bất mãn...Cao Bá Quát cho rằng đời sống của một người càng nhiều “ lúng túng “ , người đó càng có cơ hội trở thành “ nhân vật lớn “. Chính vì vậy, trong bài thơ “ Bất ngộ thời “, Cao Bá Quát đã hạ bút viết rằng :
“ Ngất ngưởng thay Con Tạo khéo cơ cầu
Muốn đại thụ hãy dìm cho lúng túng “ ( Thơ Cao Bá Quát )
Nhờ vào đâu học sinh Phan Châu Trinh đã vượt thoát được những tình huống lúng túng như vừa mô tả ? Câu trả lời sẽ tìm thấy khi chúng ta hướng mắt nhìn về phía Thầy gíáo và Cô giáo trường Phan Châu Trinh. Thực vậy, ngoài những giờ dạy chuyên môn về khoa học toán, khoa học thực nghiệm và khoa học nhân văn , Thầy và Cô giáo trường Phan Châu Trinh đã thường xuyên tĩnh táo và kịp thời trong việc ứng xử với đám học trò bất mãn hiện sinh mỗi khi kỷ luật nhà trường bị vi phạm.
Những ứng xử kia là : khi lạnh lùng xa cách, khi thân thiết kề cận , khi nghiêm khắc trừng phạt, khi nồng nhiệt ban thưởng . Điều cần nhấn mạnh ở đây là các ứng xử tuy có khác nhau về hình thức, về mức độ nặng nhẹ, nhưng trong cốt lõi của mỗi ứng xử bao giờ cũng là sự ẩn chứa một cách rõ nét lòng yêu thương rộng lượng của Thẩy và Cô giáo đối với học trò. Chính lòng yêu thương này đã hối thúc Thầy và Cô giáo , ngoài những giờ dạy các môn học chuyên khoa , đã dùng ngôn ngữ , cử chỉ hoặc chính đời sống của mình để trao truyền cho học trò hai lời giáo huấn căn bản :
Lời giáo huấn một : Đà Nẵng là thương cảng lớn của Việt Nam. Đà Nẵng là điểm hội tụ của dân thập phương thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau . Họ kéo về Đà Nẵng nhằm tìm phương tiện sinh sống . Đặc tính của người Đà Nẵng là hòa đồng với người của muôn phương để chung sống trong thương yêu và phát triển . Đó là Đà- Nẵng-tính.
Lời gíao huấn hai : một trong những điểm nổi bật trong tư tưởng Phan Châu Trinh là thái độ nhìn nhận mọi dị biệt giữa người dân với người dân về vũ trụ quan, nhân sinh quan và xã hội quan . Có nhìn nhận như vậy, Việt Nam mới có cơ hội vươn mình lên thành một xã hội đoàn kết , văn minh, dân chủ và thịnh vượng . Tình bạn giữa Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu là sự minh chứng rằng người ta có thể bất đồng nhưng không bất hoà . Đó là cốt lõi của Phan-Châu-Trinh-tính .
Nhờ vào công trình giáo dục phối hợp nhịp nhàng giữa nghiêm minh trong trí dục và dịu dàng trong đức dục, Thầy và Cô giáo trường Phan Châu Trinh qua nhiều niên khóa, đã cống hiến cho xã hội Việt Nam những công dân hữu ích . Đây là những con người thành công trong xã hội, thông minh , yêu nước, chống bất công bằng tất cả tâm tình tha thiết của những người đã thực sự chìm nổi trong dòng sử Việt .
Trong phạm vi hạn hẹp của bài viết “ Tạ Ơn Thầy Cô “, những điều trình bày ở trên chỉ nói lên được phần nào công ơn trời biển của Thầy và của Cô giáo trường Trung Học Phan Châu Trinh Đà Nẵng . Nói tới công ơn tức là nói tới tình và nghĩa . Tình là thất tình . Trong thực tế khi nói tới chữ “ Tình “, người ta thường nghĩ đến tình thương yêu. Khi hai hay nhiều người có tình với nhau, họ phải biểu lộ chữ tình kia bằng một số việc làm , đó là nghĩa. Tình là tư tưởng, nghĩa là hành động thể hiện tư tưởng . Tình và nghĩa như hai mặt không thể tách rời của một bàn tay. Sau đó tình và nghĩa nắm tay nhau, cất cánh bay cao .
Do lòng thương mến tuổi trẻ, Thầy giáo và Cô giáo tận tụy dẫn dắt học trò mở mang trí tuệ và thăng tiến đạo đức . Đó là tình và nghĩa của Thầy dành cho Trò. Đáp lại, học trò biết ơn và thương kính Thầy Cô. Trò học hành chăm chỉ, mẫn cán làm những công việc để Thầy Cô vui lòng . Đó là tình và nghĩa của trò đối với Thầy . Cứ như thế, tìng nghĩa Thầy Trò quấn quyện vào nhau, cùng nhau thăng hoa.
Thầy Trần Đại Tăng là một vị Thầy rất nghiêm khắc trong giờ dạy toán. Thế nhưng khi Thầy và Trò đã biền biệt xa cách, nhà thơ Trần Hoan Trinh đã nhẹ nhàng viết ra những thương mến đậm đà :
“...Rồi các em bỏ đi về tám hướng
Một mình thầy đứng lại giữa sân trường
Hồn no đầy mới lạ của trăm phương
Có bao giờ lòng quay về chốn cũ ? “
( “ Chiều một mình sân trường “. Thơ Trần Hoan Trinh )
“ Có bao giờ lòng quay về chốn cũ “ ư ? Thưa rằng trong thâm tâm của mỗi học sinh Phan Châu Trinh công ơn của Thầy, của Cô bao giờ cũng là điểm nhớ mà lòng vẫn thường xuyên quay về. Sau khi ra trường, trò có thể là một người công danh hiển đạt. Thế nhưng mỗi lần gặp mặt Thầy Cô, mặc dầu cả Thầy lẫn Trò tóc muối nhiều hơn tóc tiêu , trò vẫn một mực trình diện Thầy Cô bằng tất cả tấm lòng tôn kính và mến thương :
“ Thưa Thầy em là cựu học sinh Phan Châu Trinh một dạo
Tóc dẫu pha sương, một chữ ơn Thầy “
( “ Về Đà Nẵng Đọc Thơ Trần Hoan Trinh “ – Thơ Võ Ý )
Câu chuyện đối đáp văn thơ giữa Thầy Trần Hoan Trinh và trò Võ Ý chỉ là một tình huống trong muôn ngàn tình huống cho thấy tình Thầy Trò Phan Châu Trinh là loại tình cảm đặc biệt keo sơn.
Trong keo sơn kia, Thầy và Trò Phan Châu Trinh còn nhìn ra sự thể rằng người Việt Nam hậu bán thế kỷ 20 là lớp người sống lưu lạc triền miên từ Bắc vào Nam : 1954, lưu lạc trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam do những tai ương của chiến tranh và sau cùng là một lưu lạc thảm sầu làm cả quốc tế phải rung động , đó là cuộc lưu lạc trên toàn thế giới sau biến cố 30/04/1975.
Ngày nay có những người đã phải sống ở ngoại quốc lâu dài hơn năm tháng được sống trên lãnh thổ Việt Nam. Trong cảnh đời lưu lạc nghiệt ngã mà chúng ta đang trôi nổi, hai chữ quê hương bất ngờ trở thành một dấu hỏi lớn : Quê hương là Huế, SàiGòn, Hà Nội ư ? Quê hương là Paris, Hoa Thịnh Đốn, Luân Đôn ư ? Hay quê hương chỉ là chùm khế ngọt ? Thưa không phải như vậy ! QUÊ HƯƠNG LÀ NƠI MÀ TÌNH CẢM VÀ TƯ TƯỞNG CỦA MỘT NGƯỜI ĐƯỢC VƯƠN LÊN VÀ ĐƯỢC ĐỊNH HÌNH .
Căn cứ vào suy nghĩ vừa kể, bạn học trường Trung Học ở đâu, nơi đó chính là quê hương của bạn . Quê hương của chúng ta là trường Trung Học Phan Châu Trinh Đà Nẵng . Linh hồn của nhà trường chắc chắn phải là hình ảnh của các Thầy Hiệu trưởng, các Thầy giáo và các Cô giáo.
Như vậy tình Thầy Trò trường Phan Châu Trinh hàm chứa cả tình yêu quê hương của lớp người lưu lạc. Tình Thầy Trò là tình riêng, tình yêu Quê Hương là tình chung . Tại mái trường Phan Châu Trinh : tình riêng và tình chung đã được nhập làm một . Trong trạng thái nhập làm một vừa kể, tình Thầy Trò Phan Châu Trinh trở thành những đóa hoa tuyệt tươi thơm và tuyệt lộng lẫy ...
Đỗ Thái Nhiên
(Đặc san kỷ niệm 60 thành lập trường Trung Học Phan Châu Trinh Đà Nẵng,
California tháng 7 năm 2012)

Tấm bảng đen trước mặt
Viên phấn nằm trên bàn
Ngoài sân cây xoã tóc
Trên trời mây lang thang
Này các em , các em
Hàm số ấy đồng biến
- Con chim gì trên cây
Tiếng ca, trời ! xao xuyến
Đoạn thẳng này thẳng góc
Còn đoạn kia đoạn xiên
- Chiều nay người yêu khóc
Mình nằm buồn cả đêm !
Vòng tròn, ờ, vòng tròn...
- Tròn như đôi môi em
Tròn như đôi mắt em
Tròn như tình yêu em
Những đường cong đan nhau
Những đường cong khép kín
- Kín như vòng tay anh
Ôm trọn vòng lưng em
Chàng cúi đầu, cúi đầu
Lời chàng không có hồn
Mắt chàng nhìn mây cao
Hồn chàng trên mây cao ...
Trần Đại
(1995 )

Trường Trung học Phan Châu Trinh, Đà Nẵng
Hiệu trưởng qua các thời kỳ đến tháng 4 năm 1975
|
Thứ Tự |
Tên |
Nhiệm kỳ |
|
1 |
Lê Khắc Giai |
1952-1953 |
|
2 |
Trương Cảnh Ngôn |
1953 |
|
3 |
Bùi Tấn |
1953-1955 |
|
4 |
Huỳnh Văn Gi |
1955-1956 |
|
5 |
Nguyễn Đăng Ngọc |
1956-1962 |
|
6 |
Ngô Văn Chương |
1962-1963 |
|
7 |
Châu Trọng Ngô |
1963-1964 |
|
8 |
Đặng Ngọc Tuấn |
1964-1966 |
|
9 |
Trần Vinh Anh |
1966-1967 |
|
10 |
Thái Doãn Ngà |
1967-1973 |
|
11 |
Huỳnh Mai Trác |
1973-1975 |
|
12 |
Nguyễn Đình Trọng |
1975 |
Lịch sử
Dầu tôi đã rời trường Phan Châu Trinh trên 40 năm , hai phần ba đời người, kỷ niệm dường như đã chôn vùi trong quá khứ. Nhưng mỗi khi có dịp thăm ngôi trường cũ hay gặp lại những người thân thương đâu đó ...kỷ niệm được gợi nhớ như vẫn còn nguyên vẹn .
Muà Hè năm 2001, tôi về thăm trường và được ông Lê Phú Kỳ, Hiệu trưởng đương nhiệm , mời dự lễ tổng kết năm học và phát thưởng. Trong thời gian năm mươi năm qua, thầy Lê Phú Kỳ là cựu học sinh Phan Châu Trinh thứ hai đã về nắm giữ chức vụ Hiệu trưởng Phan Châu Trinh . Tôi chúc mừng tân Hiệu trưởng và phải nói rằng đây là vinh dự của trường.
Trong ánh nắng chan hoà của một ngày hè, tôi ngồi nhìn các cháu nam nữ học sinh xếp hàng từng lớp đứng trước sân trường mà như nhìn thấy lại chính mình bốn mươi năm trước ! Tôi thì thầm : “Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa và linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước...” ( Đinh Hùng ? ).
“ Mới ngày nào ...mới ngày nào ...” thầy trò bạn bè cũ gặp nhau hàn huyên bằng những câu nói đồng cảm quen thuộc, nghe như xa xôi mà thật gần gủi thân thương . Tôi nghĩ rằng kỷ niệm tuổi thiên –đàng- học- trò của chúng tôi làm sao có thể quên được ! Gần đây, nhân nghe đĩa nhạc “ Mơ Ước Kỷ Niệm Xưa “ với câu hát “ Nếu có ước muốn trong cuộc đời này , hãy nhớ ước muốn thời gian trở lại...” ,dường như tôi bắt gặp một âm điệu vang lên từ tâm hồn và tôi muốn viết bài này .
“ Hồi tưởng “ một vài kỷ niệm vui buồn của thời học sinh Phan Châu Trinh tôi đã viết trong Kỷ yếu 45 năm. Mới đó, nay phải cọng thêm 5 năm nữa , để Phan Châu Trinh tròn nửa thế kỷ , không biết Phan Châu Trinh 60 năm, 70 năm ...anh em cùng thế hệ chúng tôi mấy người được trở về thăm ngôi trường cũ ? Hay tất cả chỉ là “ phù du cát bụi “ . Theo dòng thời gian của đời mình , tôi ghi lại một vài kỷ niệm đầy ấn tượng từ ngày rời Phan Châu Trinh .
Gặp lại thầy cũ

Thầy Trần Đại Tăng , người đã gắn bó với Phan Châu Trinh 40 năm , có thể là người thầy mà tôi gặp nhiều nhất trong thời gian 35 năm tôi làm việc tại Đà Nẵng. Mỗi lần thăm thầy, thầy thường tặng tôi một bài thơ mang nhiều ý nghĩa . Tôi rất mến thầy, nhất là thơ của thầy với bút hiệu Trần Hoan Trinh từ năm 1958 , mà có thể thầy cũng mến tôi ? Bài thơ “ Giọt thiền “ thầy viết tặng tôi trong năm qua , thật khiêm tốn và “ rất dễ thương “ với mấy câu kết :
“...
Em một đời ăn mặn
Sao lòng trong như sương
Hồn nhiên và thánh thiện
Xin chỉ ta con đường ?”
Với Thầy Nguyễn Đăng Ngọc, hơn 40 năm qua tôi chỉ gặp Thầy hai lần. Một lần ở Đà Nẵng và một lần tại thành phố San Diego ( California, Hoa Kỳ ). Hai lần gặp thầy đều là tình cờ và do cơ may cả. Số là , ít lâu sau khi chúng tôi từ giả Phan Châu Trinh thì thầy Nguyễn Đâng Ngọc cũng đổi đi nơi khác. Thầy Ngọc có một ngôi nhà riêng tại đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẫn ), TP Đà Nẵng. Khi tôi về làm việc tại Đà Nẵng, cũng tại đường Thống Nhất, sau một giờ làm việc kỷ luật “ những em xếp hạng thứ ba sau quỷ và ma “ tôi bực bội và mệt mỏi rời văn phòng đi tản bộ về nhà riêng. Bất chợt tôi gặp thầy Ngọc, cũng với nét mặt đăm chiêu như ngày nào đi bộ trên đường phố. Thầy trò gặp nhau buồn vui lẫn lộn sau những tháng năm xa cách. Tôi mời thầy quay lại văn phòng của tôi hàn huyên đôi điều, rồi thầy chào từ giả. Ba mươi năm sau, lại tình cờ, nhờ một người bạn cho tôi biết địa chỉ và số điện thoại của thầy, tôi đưa cháu Lê Cao Hiển , người con út của tôi đang du học tại Hoa Kỳ, đến trình diện và hầu thăm thầy tại thành phố San Diego. Thầy trò gặp nhau nghẹn ngào không nói nên lời. Thầy Cô Ngọc mời cha con tôi ăn cơm tối với những món ăn đặc biệt Huế. Chúng tôi nói chuyện đến hơn 12 giờ khuya. Con tôi yên lặng ngồi nghe hai thầy trò nói chuyện, tỏ vẻ kính phục và ngạc nhiên lắm. Thầy lái xe đưa chúng tôi về nhà trọ.
Sáng hôm sau, nhằm Chúa nhật, tại San Diego trước những người bạn, tôi trân trọng giới thiệu về người thầy 40 năm trước. Ai nấy nhìn thầy với lòng tôn kính, còn tôi cảm thấy sung sướng vô cùng . Tôi trình bày ý nghĩa “ Ngày Hiến chương Nhà giáo của Việt Nam “ . Những người Mỹ rất ngạc nhiên và sau đó họ vây quanh hỏi tôi nhiều điều về phong tục lễ giáo Việt Nam.
Chào từ giả thầy, tôi quay lại Orange County gặp giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hữu Cương, Viện trưởng Viện Thần học liên hiệp California ( Union College of California ). Anh Cương thân mật tiếp tôi tại văn phòng Viện trưởng. Chúng tôi đàm thoại với nhau nhiều chuyện, vì cùng vừa là cựu học sinh Phan Châu Trinh ngày xưa. Tôi nói : “ Tôi vừa thăm Thầy Nguyễn Đăng Ngọc “. Anh Cương nhíu mắt ngạc nhiên trong đôi kính cận dày cộm, hỏi tôi nhiều chuyện về trường Phan Châu Trinh .
Và bạn xưa
Bạn học cũ thì nhiều , nhưng không phải dễ gặp nhau và khi gặp nhau không phải bao giờ cũng thấy toàn điều tốt đẹp ! Mỗi người có một hoàn cảnh riêng, một hướng đi riêng ...Cũng có lắm chuyện éo le phủ phàng giữa dòng đời khi phải gặp vài người bạn cũ ! Nhưng tôi không muốn ghi lại điều đó, vì ngại đau lòng !
Có thể nói người bạn cùng lớp đã tìm thăm tôi sớm nhất là bác sĩ Bửu Quang. Trong một lễ Giáng Sinh , anh đến dự lễ và thăm tôi. Tôi vui mừng mượn một chiếc “ xe đò cọc cạch “ , cùng tự lái xe đưa gia đình và anh đi chơi cho đến quá nửa đêm . Kỷ niệm thật khó quên, nhưng chỉ được một lần , rồi từ đó tôi chưa bao giờ gặp lại anh, mặc dầu tôi đã cố gắng hỏi thăm nhiều người, nhưng chẳng một ai biết anh hiện đang ở đâu. Anh Quang với tôi có nhiều đồng cảm. Chúng tôi thích thơ Thanh Tịnh, Lưu Trọng Lư , có lẽ vì chúng tôi cùng tâm trạng của những người mồ côi , mất mẹ sớm ?
Vào một buổi chiều cuối năm 1974 , bằng tình cảm bạn học Phan Châu Trinh, bác sĩ Nguyễn Tăng Miên đã đích thân lái xe đến nhà riêng tôi. Anh tìm tôi để bàn chuyện Ái hữu cựu học sinh Phan Châu Trinh giữa những ngày chiến tranh đang ác liệt. Sau đó, một số anh chị em chúng tôi gặp nhau tại sân trường. Chỉ một lần, rồi mỗi người một ngả ...
Cuộc hội ngộ không ngờ
Có lẽ còn nhiều bạn tôi đã gặp và chưa có thể viết hết trong bài này, xin tha lỗi, nhưng tôi không thể không nhắc lại một cuộc hội ngộ bất ngờ gần đây. Giáo sư tiến sĩ Phan Xuân Dũng nhân đọc tập Kỷ yếu kỷ niệm 45 năm thành lập trường, anh đã viết cho tôi một lá thư khá dài từ Pháp và nhờ trường Phan Châu Trinh chuyển ( vì anh không biết địa chỉ của tôi ). Lá thư đến trường sớm, nhưng có lẽ gần một năm sau, tình cờ thầy Trần Đại Tăng thấy nó và vui vẻ nhận chuyển đến tôi . Thầy Tăng biết Dũng và tôi học cùng lớp và thân nhau. Thật ra , năm 1995 lần đầu tiên đến Paris, tôi cũng đã cố gắng tìm thăm anh. Nhưng tại một thủ đô mênh mông hoa lệ như Paris biết đâu mà tìm . Khi nhận được thư của Dũng, có số e-mail, tôi sung sướng hồi âm ngay và chỉ trong mấy ngày thư qua thư lại, chúng tôi biết rõ gia đạo của nhau, kể cả hình ảnh vợ con của chúng tôi nữa. Chuyện đơn giản như thế mà phải mất 40 năm mới có thể thực hiện được ! Thế rồi anh đã có dịp về thăm tôi. Chúng tôi đã gặp nhau “ mừng như bão táp “ ! Tôi lấy xe gắn máy chở Dũng chạy khắp các con đường mà bốn mươi năm trước chúng tôi thường đi . Khi chở Dũng qua cầu sông Hàn, anh ngạc nhiên hỏi tôi nhiều điều về cây cầu mới “ nối liền bên ni bên nớ “ mà trước đây chúng tôi cảm thấy xa vời vợi . Bất chợt, Dũng nhắc đến anh Phan Chánh Dinh. Tôi cười và trả lời : “ Cụ ta đang làm quan to đấy “. Dũng nói : “ Quan to quan nhỏ không cần biết, chỉ biết chúng mình là bạn cũ nên cần gặp nhau để tâm sự “ . Thế rồi chúng tôi hẹn gặp nhau tại thành phố Sài Gòn, nay là Hồ chí Minh. Chúng tôi mời thầy Trần Đại Tăng, người thầy của cả ba chúng tôi dùng cơm trưa taị nhà hàng , để nói chuyện. Nhìn thầy tóc đã bạc trắng và cả ba chúng tôi tóc cũng đã hai màu tiêu muối ! Chiều hôm đó , ba chúng tôi ngồi trên tầng cao nhất của Trung tâm Thương mại Sài Gòn uống cà phê, nhìn màn đêm buông xuống , thành phố rực sáng đẹp làm sao ! Ba người bạn, ba ngã đường riêng biệt, đã hội tụ trên quê hương . Ba chúng tôi nói năng hồn nhiên như thuở học trò. Một cuộc hội ngộ bất ngờ đã để lại trong chúng tôi ấn tượng khó phai mờ.
o O o
Tôi không nhớ rõ một triết gia nào đã nói : “ Mọi sự đời này đều thay đổi, chỉ có sự đổi thay là không bao giờ thay đổi “. Biết thế, nhưng ước gì giữa những cái mong manh của cuộc đời chúng ta trân trọng giữ được tình thầy trò, nghĩa bầu bạn . Khi viết đến đây tôi lại nhận được ( qua e-mail ) một bài thơ dài do thầy Trần Đại Tăng tặng . Xin phép được trích một phần bài thơ của thầy để gởi đến những thế hệ học sinh đã rời Phan Châu Trinh :
“...Em có bao giờ nhớ lớp xưa không ?
Nhớ bạn, nhớ thầy, nhớ bàn, nhớ ghế,
Nhớ sớm mưa giăng , nhớ chiều nắng xế,
Nhớ sân trường áo lụa trắng bay bay
Có bao giờ em nhớ tay trong tay
Chạy nhảy tung tăng, nói cười ríu rít
Nhớ những bài thơ tình thắm thiết
Trên hành lang đứng viết tặng nhau...
Và thế đó một mối tình đầu...
Đành im lặng theo thời gian khép kín
Nhưng xa cách dẫu đầu sông, cuối biển
Tận đáy lòng họ vẫn nhớ đến nhau
...Mối tình học trò , nào có gì đâu
Nhưng bất tử và muôn năm vẫn mới
Gặp một lần nhưng một đời chờ đợi !
Và vấn vương cho đến phút tàn hơi !
Mối tinh học trò đẹp như ánh mặt trời “
Lê Cao Quý
( cựu học sinh PCT niên khóa 1956-1961 )
Đ.S 50 năm PCT – ĐN , 2002

Anh trở về đứng bên tượng đồng
Ngẩn ngơ nhìn hoa phợng rụng trên sân
Cơn gió vô tình rung cây động lá
Cuốn hồn anh vào tận hư không
Năm tháng ấy đã xa mù tít tắp
Ân tình kia cũng bèo giạt mây trôi
Chỉ còn lại trên môi mình vị đắng
Nỗi cô đơn như vây phủ quanh đời
Ngày trở lại tìm thời gian đã mất
Bỗng xót xa bên lớp học không người
Aó trắng bay một thời thân thiết nhất
Cũng mịt mùng không một dáng tăm hơi
Anh vẫn còn đây bao điều muốn nói
Với trường xưa , với lớp cũ học trò
Thương mến đó nghìn trùng xa lắc
Nên cũng đành ngậm miệng im xo
Thôi một thuở đã trở thành quá khứ
Và một thời là kỷ niệm trăm năm
Ngồi ghé lại bên góc bàn bụi phủ
Trên má mình hai giọt lệ lăn nhanh
Trần Hoan Trinh
Đà Nẵng , 2002