
We have 122 guests and no members online
Hội Đồng giáo sư Phan Châu Trinh - Niên khoá 62-63

1/ Hàng đầu, ngồi: Cô Truơng Thị Thuý, Dạy môn Pháp Văn
Hàng 2: Thầy Đặng Như Đức, Sử Địa
Hàng 3: - Nguyễn Khoa Cang, Toán
Hàng 4: Trần Công Kiểm, Sử Địa & Công Dân
Hàng sau cùng: - Lê Quang Mai, Lý Hoá
Ghi chú: Xin độc giả bổ túc thêm phần danh sách còn thiếu sót rất nhiều.
Không nhìn rõ các thầy: Nguyễn Thanh Trầm, Vạn Vật - Nguyễn Trung Hối, Việt Văn - Lê Long Viên, Pháp Văn - Nguyễn Tòng, Pháp Văn & Lý Hoá - Lý Châu, Sử Địa.

Hàng đứng, từ trái: Phan Văn Gà, Phan Thị Liệu, ….
Thầy Trầm và Đức, … Lưu Kim Dung, ngoài cùng…
Hàng ngồi từ phải, số 1, Võ Hồng Đoá… , áo số 7 ND Liên Hương, … áo số 5 Lê Thị Bạch Nga.
Mong các bạn bổ túc thêm

Mong các bạn bổ túc thêm tên tuồi - Cám ơn


Mưa tầm tả vừa dứt. Trời đầu Thu lành lạnh. Trên con đường nhựa loang lổ từ trường Nguyễn Hoàng đến bờ sông Thạch Hãn ( Quảng Trị ) , nước mưa đọng lại thành vũng hay rỉ rả đổ xuống hai bên đường. Một ông già chít khăn đóng chữ nhân, áo dài đen thẳng nếp, quần trắng, giày “ bottine “ đen láng, khoác chiếc “ pelerine “ dạ cũng màu đen, vẻ quắc thước, đang đi về phía sông. Bước đi chắc chắn, ông tránh né những vũng nước nhanh nhẹn, khác thường so với tuổi tác
Người ta bảo đó là ông Võ Thành Minh. Nhưng tôi không tin và tự hỏi : Có phải đó là Võ Thành Minh tôi từng quen 20 năm về trước ? Ông Minh tôi biết quê ở tận Chợ Si, Yên Thành, Nghệ An. Trong ký ức của tôi đó là một người táo bạo, gân guốc, tóc cắt ngắn, nước da ngăm đen với chiếc mô -tô to tướng, cũ kỷ...Dù có đổi thay nhưng cốt cách, phong thái này, không thể là Võ Thành Minh ấy. Vả lại theo chỗ tôi biết thì ông Minh đã ra nước ngoài từ lâu.
Nghi ngờ nên tôi quyết định hỏi xem. Rảo bước đến gần sau lưng ông già tôi nhẹ nhàng gọi :
- Dã Mã ! ( 1 )
Ông già quay lại, ngạc nhiên, nhìn tôi ôn tồn hỏi : - “ Em là ai mà biết tôi ? “
Thôi đúng là Võ Thành Minh. Quên việc mình không nhớ tới người quen cũ, tôi hỏi ngớ ngẩn :
- Anh quên rồi sao ? Trước kia em dạy ở trường quốc học Vinh. Một đêm trăng sáng từng cùng anh nằm ngoài trời, bàn về chuyện hoạt động hướng đạo sau 45.
- Ngọc ! đoàn trưởng đoàn Nguyễn Xí, đoàn hướng đạo duy nhất còn lại ở Nghệ An lúc bấy giờ ! Trông em khác hẳn đi, trước kia trắng trẻo, xinh xắn hơn..., anh hóm hỉnh nói tiếp.
- Cám ơn anh còn nhớ, nhưng 20 năm qua rồi !
Thế là từ đó tôi lại tiếp tục giao thiệp với anh Võ Thành Minh. Người bạn vong niên ấy ngày nay không còn nữa nhưng hình ảnh con người ôm ấp một lý tưởng cao đẹp “ yêu nước “ thiết tha, nhiệt thành muốn “ giúp ích “ cho đồng bào như châm ngôn hướng đạo đã vạch ra, còn mãi dấu ấn sâu đậm trong tôi.
Ông Võ Thành Minh xuất thân từ một gia đình Nho gíáo, nhà ở cạnh Chợ Si, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, như đã nói bên trên. Lúc nhỏ, ông học chữ Nho với thân phụ rồi theo học chữ Pháp. Sau lúc đỗ Thành chung ông dạy học ở trường tư thục Hồng Lạc, Huế một thời gian rồi về Vinh tiếp tục dạy học, làm báo và hoạt động hướng đạo.
Anh Minh gia nhập hướng đạo rất sớm, trước cả ông Tạ Quang Bửu, cùng lớp với các ông Nguyễn Hy Đơn ở miền Trung và sau ông Hoàng Đạo Thúy ở Bắc không bao lâu. Anh là một tráng sinh đã “ lên đường “ , có tên rừng là “ Dã Mã “ ( 1 ). Tráng đòan Hồng Lam ( Hồng Lĩnh và Lam giang ) anh hướng dẫn ở Vinh là một tráng đoàn hướng đạo nổi tiếng ở miền Trung. Anh cũng là một trong những ủy viên tổ chức trại Họp bạn Hướng đạo toàn quốc rất thành công ở Rừng Thông Từ Hiếu, Huế, vào năm 1940. Sau cuộc họp bạn đó tinh thần hướng đạo lên rất cao thể hiện đặc biệt trong tinh thần yêu nước chân chính. Chủ yếu họ không chịu để tinh thần “ Phục hưng quốc gia “ của Pétain lung lạc và hăng hái dấn thân vào công việc từ thiện để cứu giúp đồng bào càng ngày càng cơ cực với cao điểm là nạn đói khủng khiếp ở Bắc và ở Trung trong thời gian 44 – 45.
Nói đúng ra hướng đạo không phải là một đoàn thể chính trị nên ảnh hưởng trong quần chúng không rộng rãi, nhưng phong trào ấy đã khơi dậy được lòng yêu nước và ý thức dân tộc độc lập cho một số đông thanh nhiên và học sinh ở thành thị
Trời vừa sáng, tuổi hai mươi, đất vẫn tươi ! Máu anh hùng !
Tìm đường sống ...! Tìm đường sống...!
Đó là câu hát phổ biến của hướng đạo và cũng của đa số thanh niên lúc bấy giờ. Không chịu đựng được sự đô hộ khe khắc của Pháp và Nhật họ cương quyết đi tìm một cuộc sống tự cường và tự do.
Về mặt từ thiện, những bàn tay nhỏ bé không ngăn chận được thác lũ nhưng những cố gắng của anh em hướng đạo đã giúp cho nhiều gia đình kéo dài sự cầm cự với cơn đói ngặt nghèo và có lúc nhờ vào đó mà sống sót. Trong việc cứu giúp những người nghèo đói anh Võ Thành Minh có kể lại cho tôi nghe một chuyện rất cảm động : Một sáng sớm trên đường về nhà sau buổi tập thể dục anh đã gặp một chiếc xe bò của Sở Vệ sinh thành phố đang chở đầy xác chết đi chôn. Lúc đi qua chiếc xe, ngoảnh nhìn lại anh thấy như có một đôi mắt còn long lanh đang theo dõi anh. Đi vòng lại, anh yêu cầu người phu xe tạm dừng xe. Tìm trong đống xác qủa có một em bé chừng 9, 10 tuổi còn ngắt ngoải. Anh đem đứa bé đó về nhà săn sóc. Sống cùng anh một thời gian nó khỏe lại rồi sau đó tìm về với gia đình.
Năm 1947 sau lúc thành phố Vinh bị triệt phá theo chính sách tiêu thổ kháng chiến của Việt Cộng, anh về sống tại quê nhà. Cuộc sống của anh bắt đầu có nhiều biến động từ đây.
Về quê chẳng bao lâu, không rõ vì lý do gì anh bị Ủy ban Hành chánh huyện Yên Thành bắt giam tại huyện. Theo lời anh kể lại thì một sáng sớm mấy tên du kích phụ trách canh tù đã thì thầm lúc đi qua phòng anh : “ Đêm nay cho thằng này tắm “. Linh tính cũng như thực tế cho anh biết sẽ chuyện chẳng lành. Anh suy nghĩ thật lung , tìm cách đào thóat.
Nhà cửa ở vùng Yên Thành phần lớn xây bằng đá ong, một loại đất màu đỏ, mềm lúc còn nằm dưới đất nhưng rắn lại khi ra ngoài trời. Dân địa phương thường tìm những hầm đá ong, chắn thành khối hình chữ nhật, đem phơi khô dùng xây tường với một thứ vữa không có gì chắc chắn, đặc biệt lúc bị ngấm nước. Anh Minh hiểu rõ tính chất của đá ong nên từ sáng hôm ấy, sau khi nghe hai du kích nói, anh đã nhịn không dùng khẩu phần nước được cấp hàng ngày. Ngay nước tiểu anh cũng tìm cách giữ lại trong cái gáo dùng cho phạm nhân làm vệ sinh về đêm. Anh kín đáo cho nước dần dần thấm vào vữa quanh một viên đá để viên đá long ra tuy vẫn nằm nguyên tại chỗ. Tối hôm ấy, sau lúc nhà giam tắt đèn, anh vờ ngủ thật say. Chờ bọn du kích đi khám xét lần cuối xong, anh lấy gối chăn và quần áo xếp thành hình người như đang ngủ. Nghe ngóng thật kỷ, anh nhẹ nhàng tháo viên đá ong đã long, rồi tháo tiếp thêm ít viên nữa vừa đủ chỗ để chui ra .
Thoát khỏi nhà giam anh định về gia đình lẫn trốn, nhưng nghĩ du kích sau lúc phát giác thế nào cũng đến nhà tìm kiếm, nên anh lại thôi. May mắn nhặt được cái “ oi “ ( giỏ ) cá bên đường, anh cải trang thành người nông dân đi bắt ếch rồi nương theo đồng ruộng chạy ngược về Đồ Lương. Yên Thành cách Đồ Lương non 30 cây số nên lúc gần Đồ Lương trời đã tang tảng sáng. Biết thế nào cũng lộ tông tích, anh đã táo bạo quyết định : Đến ngay thẳng nhà ông Chủ tịch Ủy ban hành chánh huyện Đồ Lương để trình diện. Sỡ dĩ anh có quyết định này vì ông Lục, chủ tịch huyện Anh Sơn lúc bấy giờ nguyên là một huynh trưởng hướng đạo. Ông Lục tất nhiên không che dấu được và sẽ phải giao anh cho Ủy ban tỉnh. Trường hợp anh bị bắt giam như vậy được công khai hóa và phải được đem ra xét xử rõ ràng. Đúng anh dự liệu, ông Lục đã gải giao anh cho Ủy ban tỉnh. Vốn được nhiều giới trong tỉnh biết với lại chẳng có bằng cớ gì để buộc tội, Ủy ban tỉnh đàng phải thả và cấp giấy phép cho anh trở lại sinh sống ở quê qúan, một hình thức để đe dọa vừa kiềm chế chặt chẽ.
Biết không thể kéo dài cuộc sống nguy hiểm ấy nên năm 1948 nhân có họp bạn tráng sinh ở Rừng Thông Hoàng Mai ( giữa Nghệ An và Thanh Hóa ) anh đã xin phép đi dự họp rồi tìm cách lánh vào vùng quốc gia. Cuộc họp này do ông Bạch văn Quế, huynh trưởng hướng đạo cũ và đương kim Ủy viên thanh niên trong Ủy ban hành chánh liên khu 4, triệu tập nhằm mục đích giải tán phong trào Hướng Đạo và đặt các huynh trưởng, những người có nhiều kinh nghiệm điều khiển thanh, thiếu niên, dưới tay Cộng Sản.
Sau lúc vào vùng quốc gia, anh trở lại Huế sống một thời gian. Tại đây lấy tư cách là Ủy viên Hướng đạo miền anh đã triệu tập một cuộc họp tráng sinh, thảo luận về tình hình đất nước nhằm xác định thái độ của người thanh niên trước thời cuộc. Vì khuynh hướng chính trị khác nhau cuộc họp không đưa đến kết qủa.
Nhận thấy miền Cộng Sản không phải là nơi có thể thực hiện chí nguyện yêu nước và vùng quốc gia với sự hiện diện của quân đội viễn chinh Pháp , triển vọng một Việt Nam độc lập thật khó khăn và xa vời, anh vận động đi sang Âu Châu. Từ bên ngoài hi vọng nhìn rõ tình hình đất nước hơn anh ước mong có thể dựa vào các lực lượng dân chủ và tiến bộ thật sự, vận động một tiến trình hoà bình cho quê hương hầu tránh khỏi chiến tranh tương tàn.
Nghe anh nói chuyện tôi thông cảm với lòng nhiệt thành nhưng vẫn nghi ngờ về lập trường của anh. Có phải anh có khuynh hướng thân Pháp không ? Vì sự nghi ngờ này có lần tôi đã thẳng thắn hỏi anh : - Trong tình thế khó khăn lúc bấy giờ làm sao anh có thể đi ra nước ngoài được và lấy gì để sinh sống ?
Đáp lại anh cho biết : - Đúng, khó khăn ! Về việc đi Pháp anh phải nhờ anh Niedrich ( 2 ) can thiệp, nhưng sau lúc sang Pháp anh đã đi Thụy Sĩ và ở bên ấy. Anh không nhận tiền bạc của bất cớ một người hay một tổ chức nào. Sống nhờ chính vào sức mình bằng cách đổi công như đi cắt cỏ cho các tư gia, hái qủa ở các nông trại và cũng nhờ dịch một số tài liệu Hán văn cho một vài trường Đại học ...Lúc đau ốm thì tự chữa lấy là chính, bằng cách tĩnh dưỡng và tập trung nghị lực.
Tôi không tin vào lời anh nói cho lắm, nhưng sau này lúc hiểu rõ hơn lề lối sinh hoạt ở nước ngoài, một cuộc sống như anh không phải không thể thực hiện được. Nhiều người hiện nay theo chỗ tôi biết, cũng có lối sống như anh.
Năm 1954 đại diện của hai chính thể Việt Nam, quốc gia và cộng sản, cùng đại diện các cường quốc Pháp. Mỹ,Anh, Nga và Trung quốc họp tại Genève để tìm cách chấm dứt cuộc chiến Việt Nam. Giải pháp chính trị và quân sự tạm bợ chia đôi nước Việt đi ngược lại với lòng dân. Gương lịch sử còn đó, một cuộc chiến tương tàn giữa Nam Bắc rồi ra không tránh khỏi. Những ai có chút hiểu biết về lịch sử và tình thế không thể không lo lắng trước viễn ảnh mờ mịt của đất nước. Không liên hệ với một đảng phái nào và cũng chẳng có một thế lực chính trị mạnh mẻ hổ trợ, anh đành mượn gương người xưa để kêu gọi lòng yêu nước của những người đại diện hai bên tìm đến những biện pháp hoà bình nhất cho dân tộc. Một đêm trăng sáng, bên hồ Leman, gần nơi lưu trú của các phái đoàn anh mượn tiếng sáo trúc thổi lên những khúc nhạc buồn Việt Nam. Anh mong tiếng sáo đánh thức được tình đồng bào ruột thịt trong lòng những người đại diện của hai chế độ. Anh ao ước đất nước không bị chia cắt để khỏi lâm vào một chiến tranh nồi da xáo thịt. Nếu ngày xưa tiếng sáo của Trương Lương đã làm cho quân Sở nhớ nhà và nhớ tới quê hương thì tiếng sáo của anh Dã Mã hôm ấy hình như không động lòng một đại biểu nào. Có chăng tiếng sáo chỉ vang vọng đến trong tâm tư của một số Việt kiều và đồng bào yêu nước.
Năm 1963, sau chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, với hi vọng làm được một việc gì có ích anh đã trở lại Việt Nam. Nhưng ngoài mọi dự tính, vừa bước xuống phi trường Tân Sơn Nhất thì anh đã bị một lực lượng nào đó đón anh đi rồi đưa anh thẳng lên Pleiku ( 3 ). Sau một tuần lễ gần như bị giam lỏng ở Pleiku người ta hỏi anh muốn về đâu thì được đưa về đó. Suy tính kỷ anh thấy trở lại Huế là thuận tiện nhất vì anh đã từng sinh sống ở đó. Anh lại nhớ tới nhà thờ Cụ Phan Bội Châu, một người đồng hương, một người yêu nước anh vô cùng kính mến. Không làm gì được thì sớm tối hương khói cho Cụ gọi là bày tỏ lòng hiếu đối với Cụ và cũng vơi được lòng yêu nước lúc tuổi già. Trở về Huế phụng thờ Cụ Phan anh đã bày tỏ rõ ràng lập trường yêu nước của mình.
Ngoài ra Anh còn có một người kế mẫu và một người em trai ở Quảng Trị. Huế – Quảng Trị không xa lắm anh có thể đi lại thăm viếng dễ dàng. Theo chỗ tôi biết thì anh phụng sự bà kế mẫu rất chí hiếu theo kiểu một nhà nho xưa. Với một chiếc mô-by-lết cũ kỷ, tuần nào anh cũng ra vào Huế – Quảng Trị. Có lần đi qúa sớm, lúc trời còn lờ mờ tối, các cổng gác chưa mở và anh đã đâm sầm vào các vòng giây kẻm gai vắt qua đường. Mấy anh lính canh nghe động vội vàng lấy súng và lên đạn nhưng lúc thấy một cụ già đang lúng túng gỡ chiếc xe ra khỏi giây kẽm họ vội vàng đến giúp đỡ và mời vào trạm gác uống nước trà sáng. Với thái độ thân mật và tài nói chuyện sẵn có, anh đã làm cho các anh lính gác vui vẻ và có nhiều thiện cảm. Có lần lại mang theo chiếc đàn cò ( nhị ) hay cái sáo trúc , anh đàn và thổi đủ mọi miền Nam- Trung – Bắc. Từ đó các anh lính ở trạm gác trên đọan đường Huế – Quảng Trị thường mong chờ ông già với chiếc xe mô-by-lết lộc cộc.
Nếp sống khắc kỷ của một nhà nho hình như không phù hợp mấy với gia đình của người em nên thời gian về sau anh vẫn đều đặn ra hầu thăm bà kế mẫu nhưng không còn ở lại nhà em như trước kia nữa. Và mỗi lần ra Quảng Trị anh dành nhiều thì giờ hơn để gặp gỡ và trao đổi với các nhà nho ở đây. Có thể nói Nho giáo là niềm say mê và cũng là nếp sống của anh, một nếp sống thường được gọi là thanh bần. Không những ở Quảng Trị mà ở Huế cũng vậy phần lớn thời gian giao du của anh cũng là tiếp xúc với các cụ nhà nho. Một trong những ước vọng lớn lao của anh hình như là đưa xã hội về với đạo đức nho gíao, không phải thứ nho gíao hình thức nhưng là nho giáo với tinh thần “ Nhân – Thứ “ làm gốc. Mê Nho giáo đến độ, như anh đã tâm sự, muốn biến Ấu, Thiếu, Tráng sinh Hướng đạo ra thành Nho Âu, Nho Thiếu và Nho tráng..
Thấy anh tin tưởng vào Nho gíao mà Nho gíao lấy chuyện tham chính làm trọng nên tôi đã hỏi : - “ Nếu chính phủ mời anh tham chính anh có nhận lời không ? “ . Với tất cả nhiệt thành anh cho biết : “ Tham chánh hay không anh không biết, nhưng làm được việc gì có ích cho đất nước thì dù chết anh cũng muốn làm”. Trước tinh thần tích cực của anh tôi gợi ý với anh nên đi tìm gặp một số nhà trí thức cùng các vị lãnh đạo tinh thần ở Huế để thử xem có thể làm được chuyện gì thích hợp.
Không rõ anh có theo gợi ý của tôi không nhưng sau một thời gian anh cho biết anh đã tìm gặp nhiều người, trong số có ông Viện trưởng Đại học Huế, Nguyễn thế Anh, một số giáo sư và một số các vị lãnh đạo tinh thần cùng nhân sĩ ở Huế. Anh cũng cho biết thêm là phần đông thành tâm và thiện chí nhưng với tinh thần nho giáo “ uy vũ bất năng khuất “ anh không đồng ý với một vài vị lãnh đạo tôn gíao qúa tự tôn và tự kiêu dù anh biết tôn gíao là lực lượng chủ yếu lúc bấy giờ.
Bỗng xẩy ra biến cố Mậu Thân. Trong một đêm , Việt Cộng đã tràn khắp thành phố. Tiếng súng lớn, nhỏ nổ ran mọi nơi, dân chúng già trẻ, lớn bé bồng bế nhau chạy giặc. Người chết, kẻ bị thương, trẻ con lạc nẻo, người già không ai nâng đỡ...Tinh thần “ giúp ích “ bỗng bừng trổi nơi người hướng đạo già. Mặc Việt Cộng, mặc tiếng súng, anh Dã Mã đã chạy đi chạy lại khắp nơi, lúc thì băng bó cho người bị thương, lúc dẫn dắt một cụ già xuống hầm trú ẩn, lúc giúp một em bé tìm lại gia đình...Hoạt động của anh không thoát khỏi sự chú ý của Việt Cộng. Hẳn đây là một tên địch trá hình tìm cách do thám tình hình để báo cho ngụy quân, ngụy quyền hay cho Mỹ. Và những tên nằm vùng nắm được cơ hội lập công đã bắt anh giao lại cho bọn Việt Cộng chính qui. Chúng dẫn anh về mật khu để đưa ra miền Bắc khai thác. Trên đường ra Bắc anh đã gặp được ông Nguyễn văn Đãi, đại biểu chính phủ Vùng I chiến thuật và cũng là nhà văn Hoàng Liên. Hai người có quen nhau nhưng không nói chuyện với nhau vì sợ chúng khai thác nên chỉ đối đáp nho nhỏ với nhau qua một vài câu thơ Đường ( 4 )để bày tỏ ý hướng của mình. Nhưng trong khi ông Nguyễn văn Đãi bị chúng dẫn ra Bắc thì anh Dã Mã hoặc vì phản đối hoặc vì tìm cách trốn thoát hay vì do tiếng Nghệ An nằng nặng của anh mà chúng nghi là một người đã phản bội Đảng nên đã bị chúng hành quyết trên đường đi.
Hai mươi năm trước Cộng Sản đã giết chết biết bao nhà trí thức và những người yêu nước chân chính. Cũng hai mươi năm trước anh Võ Thành Minh may mắn thóat chết nhưng đúng hai mươi năm sau anh lại đối diện với Cộng Sản và đã bị thủ tiêu. Người trí thức, người yêu nước chân chính, người có tinh thần độc lập khó có được một chỗ đứng trong một xã hội độc tài, đảng trị.
Anh Dã Mã – Võ Thành Minh, một người hướng đạo gương mẫu, một người anh trên đường đời, xin anh hãy nhận nơi đây tấm lòng thương tiếc và kính mến của một người bạn vong niên.
San Diego, Hè 2002
Nguyễn Đăng Ngọc
------
Bị chú : - 1- Dã Mã hay Dạ Mã, vì sơ ý tôi đã không hỏi rõ. Tiếng Nghệ An đọc dấu ngã và dấu nặng giống nhau. Tôi nghĩ Dã Mã đúng hơn là Dạ Mã
- 2- Ông Niedrich là một huynh trưởng Hướng đạo làm giám đốc Nhà Đèn Huế trước 1945. Lúc Nhật đảo chánh Pháp ngày 9 tháng 3 năm 45, theo tin đồn thì ông đã theo đường núi cùng với một số ít binh sĩ Pháp trốn lên Lào. Ông ta đã trở lại Huế sau lúc Pháp tái chiếm Huế vào năm 1947.
- 3 – Về chuyện này tôi có hỏi Trung tướng Vĩnh Lộc bấy giờ là Tư Lệnh Quân Đoàn 2 . Trung tướng không biết chuyện này. Tôi nghĩ lực lượng cầm giữ ông Võ Thành Minh là một lực lượng đặc biệt của Trung ương với lại chuyện xảy ra trong một thời gian ngắn lúc ông Lộc vừa mới nhậm chức nên hình như đã không được báo cáo.
- 4 – Việc này chính anh Nguyễn văn Đãi đã kể lại cho tôi.

Bạn Cũ Trường Xưa
Ngôi trường đó là trong anh nỗi nhớ
Là trong em cả tuổi trẻ thiên thần
Là của em mộng mơ và sách vở
Là của anh những giờ dạy thiên đường…
Trần Hoan Trinh
Và bạn bè mỗi người mỗi ngã
Ðứa ra đi đứa ở lại âm thầm
Phan Châu Trinh ơi ! Trường còn nhớ hay không?
Thầy cô cũ vẫn ra vào lối cổng!
|
Thái Doãn Ngà một thời vang bóng Từ trắng tay xây dựng một cơ đồ Có công nhiều trong việc điểm tô Cho trường lớp thành khang trang đẹp đẽ |
![]() |
|
Hồ Văn Thuyết tháng ngày đi lặng lẽ Có như không, không có cũng như không Giưã thế nhân mưu lợi cầu vinh Vẫn ngơ ngẫn làm một người khách lạ |
![]() |
|
Lê Long Viên rượu nồng tình băng giá Bỏ cây roi về đóng vở học trò Nhìn cuộc đời với đôi mắt tỉnh say Trong cô độc muốn buớc đi lần nưã |
![]() |
|
Trần Công Kiểm nằm dài sau cánh cưả (2) Khung trời riêng chỉ bốn bức tường xanh Để rong rêu cứ bám rễ trong hồn Thương vợ con tháng năm nhiều lận đận |
![]() |
|
Phan Thanh Gia-Lai má hồng bạc phận Ít ngọt bùi lắm cay đắng trần gian Người ra đi mang mất tuổi thanh xuân Để lại đó tháng ngày thương nhớ nguyệt |
![]() |
|
Người hoạ sĩ tóc bềnh bồng như tuyết Dáng phong sương vẫn vẻ Đỗ Toàn xưa Cuộc lưu linh từ sớm đến tối mờ Nghiêng hồ rượu hỏi ai cùng túy lúy? |
| ( ) |
|
Ôi giai nhân! Thiên thần hay ác quỷ Ngô Thị Như Hà một thuở đẹp như tiên Tình tay ba HÀ-LÃNG-HỔ đảo điên Khiến nhân thế tốn bao nhiêu giấy mực |
![]() |
|
Tôn Thất Lan điệu slow buồn thổn thức (3) Tiếng kèn đồng chới với gọi chiêm bao Đêm hát tuồng nghe ngựa hí quân reo Tiếng sênh phách nhịp nhàng ru nỗi nhớ |
![]() |
|
Trần Đình Quân bỏ quê hương xứ sở Sóng trùng dương đưa đẩy bước phong trần Đêm Ca-Li nhớ Bến Ngự vô cùng Cho não nuột KHÚC TÌNH CA XỨ HUẾ |
![]() |
|
Nguyễn Lương Hiền đã về lòng đất Mẹ Để ngậm ngùi cho bao kẻ tri âm Sự nghiệp chưa thành mộng ước chưa xong Có thao thức dưới đáy mồ quạnh quẻ? |
| ( ) |
|
Hồn thiêng về đâu ơi Trần Ngọc Quế (4) Rừng Lào-Kay đêm gió buốt mưa giăng! Tiếng giảng Kiều thuở trước vẫn bâng khuâng Dư nước mắt ai khóc người thiên cổ! |
![]() |
|
Trần Nhất Hoan NỖI BUỒN NGÀY THÁNG CŨ (5) Dáng thư sinh vẻ nghệ sĩ tài hoa Giai nhân xưa cá lặn chim sa Bỡi ngang trái nên trở thành xa lạ |
![]() |
|
Nguyễn Trung Hối TRONG MÊ CUNG huyền thoại (6) Vẫn âm thầm làm một kẻ mộng du Trần Huyền ơi! Xa lăn lắc mùa thu Đêm phố nhỏ tìm vần thơ rơi rụng |
![]() |
|
Đặng Thị Liệu dạy thời còn xuân mộng Đến hôm nay vai trĩu nặng tuổi đời Một chiều về bên trường cũ ngậm ngùi Thấy tuổi trẻ của mình quên đâu đó |
![]() |
|
Đặng Minh Trai thầm yêu trộm nhớ Một bóng hình cứ dấu mãi trong tim Vượt trùng khơi trên thuyền nhỏ lênh đênh Vừa đến bến đã thân vùi đất khách |
![]() |
|
Đỗ Viết Lê thâm trầm và sâu sắc Lòng bao dung nhưng nóng nãy vô bờ Thuở trẻ trai cũng tứ chiếng giang hồ Lúc về già lại vô cùng ngoan đạo |
![]() |
|
Trần Hữu Duận cờ bay mấy dạo Khi Dầu Giây, khi Phú Túc, khi Bình Dương Ly trà sâm mát dạ khách qua đường (7) Chiếc xe thố lăn tròn niềm cô độc |
![]() |
|
Hà Công Bê chiều chiều trong quán cóc Bạn dăm thằng ngồi kể chuyện tiếu lâm Kiếp làm thầy như làm tớ khơng cơng Đêm vẫn mộng thuở Bồi Đầm Già Ách! |
![]() |
|
Tạ Quốc Bảo chàng trai hiền đất Bắc Xa quê hương từ thuở thiếu thời Thêm một lần phải lưu lạc quê người Lòng thao thức nhớ một trời cố xứ! |
![]() |
|
Cao Huy Hóa người sông Hương núi Ngự Vào Quảng Nam suýt…. quên mất lối về Dẫu xa rồi thời trai trẻ đam mê Vẫn lưu luyến với ngôi trường thuở trước |
| ( ) |
|
Nguyễn Văn Kính mãi mê xuôi ngược Sáng làm thầy tối bán chữ trăm phương Ly cà phê đen đặc sánh nỗi buồn Kể bè bạn toàn những điều tưởng tượng |
![]() |
|
Lê Quang Mai ôm mối tình hoang tưởng Mơ mộng hoài một bóng dáng giai nhân Người thì xa mà khổ cực thì gần Để nước mắt cứ ngậm ngùi lai láng |
![]() |
|
Nguyễn Ngọc Thanh đào hoa lãng mạn Cả cuộc đời cứ dang dở vì yêu Gian nan nhiều nên chẳng có bao nhiêu Để trang trải những tháng ngày lưu lạc |
![]() |
|
Huỳnh Mai Trác như mây trời phiêu bạt Một lần đi là biền biệt tăm hơi Xem lớp, trường như ảo mộng xa xôi Bỏ sách vở như thoát vòng nghiệp chướng |
![]() |
|
Và Trần Thông! Lắm trầm tư suy tưởng Tóc bạc phơ bỡi trăn trở chuyện đời Tiếng giảng bài như… tình tự xa xôi Đi đến lớp như đến nơi hò hẹn! |
![]() |
|
Phạm Ngọc Trác cách trùng trùng sông biển Nhưng mỗi lần đứng ngắm những cơn mưa Lại nhớ mưa buồn trên sân cũ trường xưa Rồi thao thức thương học trò áo trắng! |
| ( ) |
|
Trần Gia Phụng ngày rời xa Đà-Nẵng Đêm cuối cùng thăm lại mái trường xưa Sụp quỳ lạy tượng cụ Phan bốn lạy Thấy trong lòng bỗng baõ tố đong đưa |
![]() |
|
Nguyễn Văn Đáo lang thang sớm trưa Đi thơ thẩn mọi con đường thành phố Đứng ngơ ngẩn nhìn bờ sông lá đổ Nhớ tháng ngày xa tít tắp mù sương |
![]() |
|
Lê Khắc Ngọc Quỳnh hiền như dòng sông Hương Cắt mái tóc mây một sớm đến trường Thành người lớn để làm cô giáo Có gói tóc về để nhớ thương? |
![]() |
|
Giờ ra chơi đã thấy mặt Dương Ðức Phương Cầm roi mây đi khắp trường doạ trẻ Giơ rất cao nhưng cuối cùng đánh khẻ Tướng dữ dằn nhưng lòng lại hiền khô |
![]() |
|
Trương Văn Hậu mạnh như thần Apollo Sức trai trẻ khi leo đèo đổ núi Đi học tập vẫn tà tà bát phố Ngồi cà phê như trong cuộc rong chơi |
![]() |
|
Gặp một lần mà say đắm một đời! Vĩnh Vinh ơi ! Đúng tình yêu của “mệ”! Nhan sắc đó chắc phải là tuyệt thế Nên lòng ai mới mãi mãi sắt son! |
![]() |
|
Thương Nguyễn Tòng thân gà trống nuôi con Đành ngậm miệng trách cuộc tình bội bạc Giọng hát ấm thương mây trôi bèo giạt Âm ba rung động đến không ngờ |
![]() |
|
Chiều CaLi thả áo lụa làm thơ Cô giáo trẻ Phan Mộng Hoàn bật khóc Nhớ bục giảng nhớ bảng đen lớp học Nhớ học trò như nhớ một trời yêu… |
![]() |
******
Thôi kỷ niệm cứ ngan ngát thương yêu
Anh một mình bâng khuâng trong trường vắng
Chiều hôm nay bên hành lang vắng lặng
Nghe con ve buồn gọi nắng trên sân
Trần Hoan Trinh
BỊ CHÚ:
(1) Trường Trung học PHAN CHÂU TRINH ĐÀ NẴNG .
(2) Thầy Kiểm nghỉ dạy đi thầu xây dựng. Một lần bị đất đổ tổn thương cột sống, nằm liệt một chỗ cho đến khi tạ thế.
(3) Có một thời thầy Lan đi theo đoàn hát bội Sông Hàn, đêm đêm ngồi bên cánh gà thổi kèn đệm nhạc.
(4) Thầy Quế đi học tập tại Yên báy, bị bệnh kiết và mất ở đó.
(5) Tên tập truyện của thầy Trần Ðình Hoàn.
(6) Tên tập truyện của thầy Nguyễn Trung Hối. Trần Huyền: biệt hiệu của thầy Hối khi làm thơ. Có một thời tôi và Hối hay lang thang tìm… vần thơ khắp phố phường ĐN.
(7) Thuở đi học tập về, thầy Duận đi xe thồ và bán nước trà sâm tại khu vực Giồng Trôm.
(8) Thứ tự các đoạn thơ chỉ là tình cờ, cho hợp vần, hợp điệu.
Làm bài này trong ngững giây phút nhớ bạn bè.
Bài thơ tôi làm từ những thập niên 80, sau thêm bớt mấy đoạn, nên có nhiều đoạn không còn tính thời sự. Thí dụ: thuở ấy các thầy Trần Công Kiểm, Đoàn Văn Toàn, Trần Ðình Quân,… chưa tạ thế; thầy Tôn Thất Lan còn long đong,… Chỉ dám nhắc đến những bạn bè gần gũi đồng trang lứa. Bài thơ đã quá dài nên còn nhiều bạn thân chưa nhắc đến được. Đành tạ lỗi.