
We have 122 guests and no members online

Gió xuân khẽ ru đám lá xanh non cây phượng tím vườn sau, tôi sẽ nhớ mặc áo len dày. Hôm nay lòng chợt phơi phới vui khi nhìn thấy hoa nắng rắt trước sân nhà, những giọt trong veo thêu hoa lung linh trên thảm cỏ mướt xanh.
Nắng tháng Tư khi trời Cali lộng gió đem giá lạnh phương Bắc về. Tôi rét run những chiều loanh quanh xóm nhỏ mong cho cơ thể mạnh mẽ trong những bước chân líu ríu vội vã. Buổi tối mở máy thong dong tìm nguồn cảm hứng cho loạt bài viết về trường xưa kỷ niệm 60 tuổi. Ôi thời gian ! Thoáng đó mình đã già nua lúc nào.
Đã cuối mùa chay thánh, lễ Phục Sinh bao giờ cũng nở ra trong loang loáng đợt nắng reo mừng kỷ niệm Chúa sống lại. Cùng lúc mở trang Một thời Phan Châu Trinh chợt ngó thấy thiên hạ kêu gọi góp mươi dòng thương nhớ trường tôi thương mến ...
Bao giờ quay về thăm quê nội tôi sao có thể quên được không ghé vào thăm xứ Quảng . Vì Đà Nẵng là quê hương thứ hai khi tôi đang tuổi trưởng thành, lăm le mộng đời chất ngất lý tưởng nghề “ Godautre “ . Sáng nay, một cậu đồng nghiệp đàn em của trường Áo Xanh, từ bên kia bờ biển Thái Bình Dương hăng hái gởi cho tôi qua điện thư, hằng nửa trăm hình ảnh học trò con gái “ aó trắng đơn sơ mộng trắng trong “. Họ đang đến trường và tan trường. Lúc này trường Phan Châu Trinh đã hội tụ nam sinh chung học với nữ sinh như nửa thế kỷ về trước . Và sau đó phân chia rạch rõi. Nam sinh ở lại và Nữ sinh hoá thành học trò Nữ Trung học Hồng Đức . Ngôi trường dành cho con gái tọa lạc trên đường Thống Nhất đầy bóng cây sao cao vút. Tôi ở bên này với bọn húi cua, vẫn thích ngắm đàn bướm trắng dễ thương như hình ảnh lúc mình còn là học trò Đồng Khánh.
Tôi thường đến Đà Nẵng nhằm lúc học sinh nghỉ học vì thế chỉ thấy trường xưa vàng úa buồn hiu. Tôi thích chụp hình nơi tượng cụ Phan Châu Trinh . Núp sau tượng, đứng trước tượng, làm như thế tôi cảm thấy còn quanh quẩn sống với trường xưa. Rồi một mình lang thang trong sân trường hoang vắng. Chỉ thấy tiếc thương tháng ngày cũ. Ngẫng mặt nhìn lên để ngậm ngùi . Hành lang dài hun hút trên tầng cao, mơ hồ bóng dáng học trò giờ ra chơi xôn xao cười nói. Những khung cửa lớp im lìm , không còn nghe vẳng lời thầy cô giảng bài. Hàng cây trong sân trường giờ đã là cổ thụ, vẫn tỏa bóng mát êm đềm. Chạnh thương qúa vạt nắng đổ lung linh. Sân trường và hoa nắng có bao giờ mình nguôi quên ...
Đau lòng nhất khi nhìn thấy phía sau trường, một dãy tường lớp rêu phong, loang lổ màu thời gian xấu xí thảm hại...Vậy mà tôi cứ mải mê tìm lối đi con đường nhỏ đàng sau trường ? Con đường ấy tên là chi ? Tôi đã quên mất ...Tôi hay tìm thăm “ quán “ bán hàng quà trước cổng lớn. Mấy chị con cháu bác cai đã nhận ra người xưa, khi tôi hỏi thăm vài lời thương mến.
Lặng ngắm vuông bàn gỗ tạp treo bày lỏng chỏng mớ kẹo chanh, những vuông bánh xốp màu vàng nhạt, bánh cốm trắng ngon hiền. Chị quán gói cho khách bao nhiêu là quà, túi ô mai, chục trái me chua chua ngọt ngọt , quả cốc dầm vàng hươm. Chị nói “ Em tặng, cô đừng trả tiền”, có lẽ chị ấy muốn cho tôi nhấm nháp chút hương vị kỷ niệm ngày xưa thấm thía hơn.

Tôi vẫn cảm thấy khó chịu mỗi lúc gió trật qua bên kia đại lộ Lê Lợi. Đối diện trường tôi thương mến bên ni. Nơi đó là khuôn viên PCT mới, dãy thành mới của trường mới, lạ hoắc lạnh lùng. Hồi trước vốn là Nam Tiểu học. Đó cũng là cái nôi đào tạo nhiều thế hệ học sinh PCT tương lai ngày ấy. Hàng hàng lớp lớp tuổi trẻ tài giỏi đã lớn lên, họ được ươm mầm cho quê hương xứ Quảng từ ngôi trường tiểu học ưu tú này. Tôi làm sao quên được qua Nam Tiểu học ăn bánh bèo chén với chị Nguyễn Khoa Diệu Trà. Hai chị em rình khi có giờ nghỉ, thường bất chợt xảy ra lúc lớp mình phụ trách trống giờ học . Quán bánh bèo nô nức khách lui tới. Học trò và cả thầy cô thích rủ nhau từng nhóm qua đây .
Chúng tôi tìm tới một góc quán cho kín đáo để cùng thi đua xếp chén cho cao lên. Ăn hôm nay nhớ hoài ngày còn đi học ở Đồng Khánh . Dốc Nam Giao dâng cao vời vợi, rẻ vào chân núi Ngự Bình, những quán nhỏ lợp tranh thơ mộng luôn đón chờ và chúng tôi nhặt khoan chèo bánh bèo, húp nước mắm ngọt dịu ...Nam Tiểu Học thiệt dễ thương với tôi vì thế.

Để rồi sáng nay qua những trang hình ảo, tôi đã tìm được niềm vui . Chợt thấy hiện ra cảnh dập dìu hàng trăm cánh bướm trắng tươi xinh tỏa ra khắp nẻo đường thành phố Đà Nẵng . trái tim rộn ràng theo những tà aó trắng trong ấy . Bởi khi nào thế hệ trẻ lại chẳng ươm mùa nắng thơm ?

Tuy nhiên tôi đã bật cười một mình. Hãy nhìn kìa, các cô thiếu nữ coi bộ lực sĩ gớm. Vai nở, cánh tay khỏe đưa lên, chân dài mau bước. Aó dài các cô gái toàn may hàng lụa bóng, trên quần dài lụa bóng . Gót hài diện đủ kiểu .
Dép thấp quai chéo cho em lướt đi nhẹ nhàng, giày gót cao nâng thân hình em thanh mảnh yểu điệu hơn . Tay aó ngắn ngang cùi chỏ. Lắm cô bé mặc áo đưa hông cao và quần chịu chơi trể quá rốn ! A, các em không bị chế độ “ quản chế “chặt chẽ thì phải . Những tóc thề đen mượt óng ả, những kiểu tóc túm đuôi ngựa tinh nghich, có em tóc cắt cao nhí nhảnh .
Tôi chỉ thoáng vui, khi nhìn thấy một cô học trò tóc thề, ôm chiếc cặp da màu cốm non, cô bé đứng lẻ loi tựa lưng vào vách tường, đôi mắt ngơ nhác nhìn tôi ...
Dăm nữ sinh phóng xe đạp, có người đeo khẩu trang, ba lô mang sau lưng. Bên hè phố gần trước cổng trường, các cô aó trắng chen chân quanh chiếc xe bán hàng quà sang. Bọn nam sinh ngó vẫn ra vẻ trẻ con như học trò tôi ngày ấy, aó trắng quần xanh , vai mang cặp vải đơn giản . Họ cười nói tíu tít chờ giờ vào lớp .
Rồi tôi mất công tìm kiếm chiếc cặp sách vở thân thương thuở nào . Tuyệt nhiên không hề thấy. Qua bao mùa mưa nắng . Qua bao thế hệ học trò . Chiếc cặp da dễ thương ngày xưa ấy, là bạn thân thiết ủ ấp mớ sách vở rheo em đến lớp, giúp em dồi maì kinh sử. Chiếc cặp da màu nâu đen đơn sơ không quên chứa chất dăm vị đời hồn nhiên thiếu nữ. Gói muối ớt dầm với túi nhỏ cốc, me chua...thôi rồi nay biến mất .
Như hoạt cảnh trình diễn trên sân khấu thời trang. Áo trắng thướt tha vũ lượn, bên vai các nàng trẻ trung liền thay đổi. Đong đưa chiếc ví lớn hàng nhung nâu gạc nai, cô đeo túi màu xanh lục, cô diện túi vàng rực màu hoa mimosa hay khiêm tốn cũng là túi vuông rằn ri dệt bằng sợi ni-lông rực rỡ. Tôi thầm nghĩ nữ sinh hiện đại đến trường đẹp kiêu sa, diện túi hàng “ hiệu “ mắc tiền ! Rồi tôi vu vơ nghĩ ngợi chuyện đời ...
Các em thanh xuân này là học trò trường “ chuyên “. Có vẻ là con nhà khá giả. Nói theo ngôn từ quá quắt, các em xuất thân từ hàng “ đại gia “. E rằng không là nền nếp nho phong vì sang trọng thế kia cảnh nhà hàn vi làm sao vói tới . Giọng lưỡi tôi sao cực đoan thế. Nữ sinh đâu phải ai cũng có bố mẹ quyền cao chức trọng và các em chỉ biết ích kỷ học hành ?
Nhưng ...thực tế trên các miền đất nước số con cái thất học, nghèo nàn và ngu dốt nhan nhãn. Thiếu nữ con nhà nghèo khó, nhất là từ các vùng thôn quê thật chịu lắm cảnh đau lòng. Nửa chừng việc học, các em phải lao đao kiếm sống và quanh quất đầy dẫy những bọn ác ma côn đồ sẵn sàng dụ dỗ “ bán thân trinh trắng “ các em, hòng kiếm lợi cho chúng, đã mở lối cho hàng trăm em tìm đến xứ Hàn, xứ Mã...đầy quyến rũ mật ngọt.
Ôi, việc đời sai buồn thế, nên tôi không sao viết nổi thêm một dòng nào khi nhớ về “ Trường tôi mến thương “

Phan Mộng Hoàn
( Tháng Tư buồn )
nguồn : ĐS 60 năm PCT

Giáo Sư Phan Mộng Hoàn (11-7-1942 – 19-8-2020)



Những thành quách xưa
Sơn phết lại
Đứng buồn thiu
Giữa trái khuấy thời gian
![]()
Người thiếu phụ
Vào độ thu tàn
Khóac chiếc áo hai mươi
Hờ hững
Tình ta đã qua rồi
![]()
Sông không còn thơm
Dòng không còn thơ
Nước không còn ngọt
Những tàu lá chuối vật vờ
Những mãnh vá không kín
Trên lưng người mẹ già
Ngồi chờ bữa chiều nay
![]()
Có khúc hát Nam ai
Thoảng nỗi niềm Ô Lý ?
Còn đâu – Nức nở chiếc thân tàn
Đổi chén cơm vơi trong tiếng ca
![]()
Trăng buồn dăng trên sông
Gió buồn từ núi lại
Trăng theo gió vữa trong nước
Thành qúach vữa theo trăng
Và hồn ai đã vữa theo thành quách

Mùa Hè 98
(Trở lại Huế lần thứ hai )
Nguyễn Đăng Ngọc
Mưa Sa Cuối Trời
Cuối trời điểm giọt mưa sa
Giọt thương giọt nhớ giọt ta giọt người
Mưa sa nước chảy trôi xuôi
Bâng khuâng con nước đất trời nhớ thương

Cuối trời nở đóa vô thường
Không không có có đoạn trường có hay
Sông dài biển rộng thuyền say
Đông quan ngỏ ấy còn hay đi về

Cuối trời chiều xuống sơn khê
Cánh hoa vương giả mải mê mây ngàn
Chợt nghe lời gió thở than
Lá thư vàng úa bàng hoàng xót xa

Cuối trời hiu hắt quê nhà
Tâm tư nghe ướt trùng ca đêm trường
“ Tuổi già hạt lệ như sương “
Bước chân đất lạ nẻo đường ngổn ngang
San Diego Mùa Đông 2003
Nguyễn Đăng Ngọc

Xin được một sát na tĩnh lặng
Cho tâm tôi lại gặp hồn tôi
Cho nước mắt phù phiếm nụ cười
Chảy thành dòng thương chân thật

Xin được một sát na tĩnh lặng
Máu về tim nước trở lại nguồn
Nghe róc rách sông Hồng sông Cửu
Gió rạt rào trên dãy nuí Trường Sơn

Sát na tĩnh lặng sát na vô cùng
Ánh mặt trời chợt sáng màn đêm
Từ tĩnh lặng nẩy mầm huyền nhiệm
Chữ đá màu...nói chuyện với ngàn sau

Xin được một sát na tĩnh lặng
Cho tâm tôi gập được hồn người
Chung tay tha thiết nguyện cầu
Cây thương lá biếc biển trời thương nhau

San Diego – Mùa Thu 97
Nguyễn Đăng Ngọc
Vui Buồn với Trường Cũ - Một Thời Phan Châu Trinh

Trường Trung học Phan Châu Trinh xưa, ngày nay không còn nữa . Từ một ý đồ không minh bạch của một nhóm người, phòng ốc bị đập phá, cây cối trên sân trường bị đốn ngã ngổn ngang. Ngay sau biến cố 1975 có người đã đòi đổi thay tên trường .Và cũng sau biến cố 75 thầy trò tản mác muôn phương, người ra đi, kẻ ở lại …
Những người ở lại, học trò thì kẻ được tíếp tục học, kẻ không, thầy giáo cùng trong một cảnh ngộ, người được trở lại bục giảng, người đi công, nông trường …Tưởng chừng mọi sự đã thành mây khói.
Nhưng không, phòng ốc tuy không còn, trường Phan Châu Trinh của một thời vẫn còn đó và còn lại thật nhiều. Trước hết còn lại cái DÂN KHÍ, cái TINH THẦN DÂN CHỦ Cụ PHAN CHÂU TRINH đã dạy cho chúng ta . Còn lại vui buồn của một thời, những tình cảm thân thương giữa thầy trò, giữa bè bạn. Còn lại những gắn bó với hàng cây bóng mát trong sân, với hành lang nắng rát chiều hè…
Từ ngày thành lập cho đến 75, MỘT THỜI PHAN CHÂU TRINH ấy, còn rất sinh động trong mỗi con tim của chúng ta., thầy và trò, những ai đã từng qua đó .
MỘT THỜI PHAN CHÂU TRINH hình thành bởi nhiều lớp học sinh đầy thiện chí và tài năng, nhiều lớp giáo sư tận tụy với chức nghiệp, nhiều lớp phụ huynh thương yêu con em mình… May mắn cho tôi được kề vai, sát cánh với thời kỳ ấy trong một thời gian gần bảy niên học và dưới đây một ít vui buồn tôi đã trải qua.
Tháng 10 năm 1956 tôi nhận được Sự vụ lệnh của Bộ Quốc gia Giáo dục đi nhận nhiệm vụ mới : Quyền Hiệu trưởng trường Trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng .
Đó là một thăng tiến trong nghề nghiệp . Nhưng thú thật tôi chẳng mấy vui. Nhận nhiệm vụ mới có nghĩa là phải từ bỏ cuộc sống yên lành và đầm ấm ở Huế . Nơi đây tôi đang dạy tại hai trường lớn, có tiếng tăm nhất ở miền Trung : trường Quốc Học và trường Đồng Khánh.
Nghề nghiệp ổn định, sinh hoạt thoải mái, có nhà cửa sẵn, sống đầm ấm với đại gia đình giữa thành phố tôi sinh ra và lớn lên, tôi cảm thấy đã quá đầy đủ tuy tôi biết rằng cuộc sống ấy mang ít nhiều chất tiểu tư sản..
Rời Huế là rời bỏ hai ngôi trường tôi mến yêu, rời bỏ nơi tôi từng có biết bao kỷ niệm đẹp từ buổi còn thơ …
Tuy nhiên nhiệm sở mới không phải không có điểm hấp dẫn. Huế tuy êm đẹp, dịu dàng, nhưng phải thú thật phảng phất tính chất phong kiến, bảo thủ . Dù chưa biết mấy về Đà Nẵng nhưng vì Đà Nẵng là một thành phố cảng, tôi nghĩ cuộc sống ở đó hẳn cởi mở, phóng khóang. Đây không phải là một quan niệm tôi tự tạo ra để an ủi mình trước sự thể không thể từ chối lệnh của Bộ Giáo dục.
Thật ra tôi có quan niệm ấy từ lâu, từ khi biết qua lịch sử Hy Lạp. Tôi thích cuộc sống cởi mở và nền giáo dục phóng khoáng của Athens, mở rộng để đón nhiều luồng văn hóa và chẳng thích gì nền giáo dục khép kín và khắc khe đến sắt đá của thị quốc Sparta .
Sự khác biệt giữa Athens và Sparta là do vị trí địa lý và nề nếp sinh họat mà ra. Tôi tin rằng với Đà Nẵng tôi có thể tìm thấy một không khí phóng khóan và nhất là tinh thần dân chủ tiêu biểu bởi cụ Phan Châu Trinh.
Với tin tưởng đó tôi không còn mấy ngần ngại đi nhận việc ở một nơi tuy không xa Huế lắm, nhưng lại là nơi tôi không có hơn một người quen thân .
Cuộc hội ngộ đầu tiên của tôi với trường Phan Châu Trinh không mấy khích lệ . Khác với Quốc Học và Đồng Khánh là những trường đã hòan thành, trường Phan Châu Trinh là trường đang phát triển , Tôi tự hỏi : Với tuổi đời còn ít, với khả năng hạn chế, có thể đảm đương việc phát triển trường không ?
Thật không ngờ thành phố Đà Nẵng, một thành phố lớn và họat động nhất của miền Trung, cho đến năm 1956 lại không có được một trường Trung học tương xứng .
Lúc tôi đến nhận việc, trường mới có một dãy nhà trệt gồm sáu phòng học và một phòng nhỏ bé ngăn làm hai: một phần là phòng hiệu trưởng, một phần là phòng giáo sư . Trong sáu phòng học lại có một phòng dùng làm văn phòng nên chỉ sử dụng được năm phòng để giảng dạy . Kiến trúc của trường trông giống một mái chùa hơn là một trường học. Dãy lầu bên phía trái (đứng phía trong trường nhìn ra) chưa hòan thành .
Sân trường và vòng rào còn quá sơ sài . Trơ trụi chưa có một bóng cây trên sân, trừ hai cây phượng lèo tèo trước phòng giáo sư. Bãi cát sân trường lồi lõm, có nơi đầy cỏ dại .Phía góc đường Nguyễn Hòang sân lõm xuống khá sâu so với mặt đường bên ngoài .
Vòng rào quanh trường chỉ là.mấy hàng kẽm gai đơn sơ, cột chống nhiều chõ xiêu ngã. Sát với rào gai, phía gần đường Nguyễn Hòang, một túp lều vãi poncho và các-tông xập xệ của hai vợ chồng ông Sáu lang bạt . Túp lều này về sau được dời qua đường Nguyễn tri Phương, sát với sân bóng rỗ, một thời gian rồi biến mất đi đâu không rõ .
Phía bên kia đường Nguyễn Hoàng là trường tiểu học Pháp cũ..Trường được giao lại cho trường Nam Tiểu học .Vì cách biệt nên trường Nam nhường cho Phan châu Trinh Mãi về sau năm 58 hay 59, theo lời yêu cầu của trường, ông trưởng ty công chánh, một phu huymh học sinh, cho đóng đọan đường Nguyễn Hòang thông với đường Nguyễn tri Phương thì ty Tiểu học Đà Nẵng bấy giờ mới giao hẳn phần trường tiểu học ấy cho Phan Châu Trinh .
Vì chưa dùng đến và trách nhiệm không rõ ràng nên tình trạng trường Phan Châu Trinh, phía trường tiểu học Pháp cũ, gần như hoang vu. Cây dứa dại mọc đầy, một nấm đất “sề sề”, cô dơn, được truyền là một mộ Hời . Những buổi trưa hè nắng gắt, tắc kè chay rộn ràng đi tìm nơi tránh nắng và những hố nhỏ chằng chịt khắp nơi .Vì có giếng nước sâu và sẵn bãi cát nên những người làm giá ở vùng lân cận đào bới hết chỗ này đến chỗ khác trên sân để ủ giá . Sau lúc thu họach giá họ để nguyên các hố như thế .
Tình trạng đào bới giảm dần sau lúc gia dình tôi dọn vào ở dãy nhà này và ngưng hẳn sau lúc trường hòan thành sân bóng rõ, phòng thí nghiệm và sân vũ cầu . Nhân đây tôi xin nói đến một thiệt thòi của trường mà ít người biết để bổ sung thêm lịch sử xây cất của trường .
Nguyên vào quảng năm 1953, 54 Bộ giáo dục có cấp cho trường một ngân khỏan để xây nhà Hiệu trưởng như ở những trường trung học ở các tỉnh khác. Địa điểm xây nằm ở góc đường Thống Nhất và Nguyễn Tri Phương . Hồ sơ đã lập xong. chỉ chờ chữ ký của ông Giám đốc Học Chánh miền Trung thời bấy giờ là ông Đ.T.L.. Chẳng hiểu vì lý do gì ông giám đốc học chánh không chấp thuận và ngân khỏan ấy vì không dùng kịp thời nên đã được hòan trả lại cho Ngân sách quốc gia .
Tôi đến Phan Châu Trinh tiếng để thay thế thầy Hùynh Gi, một nhà giáo lão thành, bậc thầy của tôi, nhưng thật ra là để đìền vào một chỗ trống vì thầy Gi đã về hưu từ mấy tháng trước, không tới lui trường nửa. Cũng chẳng có một vị xử lý thường vụ chính thức . Mọi việc tôi phải dần dần tìm hiểu. Trong hàng ngũ giáo sư có nhiều vị có uy tín gắn bó với trường nhưng cũng có một số sẵn sàng ra đi vào miền Nam vì các vị này nghĩ rằng miền Trung chưa ổn định, Cũng có vị giảng dạy tùy tiện, tác oai tác phúc với học sinh . Chúng ta dùng thang điểm 10 trên 10 nhưng vị này đã cho học sinh 30 hay 40 điểm trên mười. Mười điểm để ghi vào sổ và số điểm còn lại dành cho nhũng lần sau .
May mắn là tình trạng chưa ổn định của trường chấm dứt mau chóng. Những giáo chức muốn rời trường lần lượt được toại nguyện và vị giáo chức có tác phong phóng túng cũng được thuyên chuyển vào Nam. May mắn hơn số giáo sư bổ dụng đến lại đông hơn số ra đi. Trong vòng hai niên khóa trường đã có một đội ngũ giáo sư đầy đũ uy tín, có khả năng, nhiều nhiệt tình, phần đông lại còn rẩt trẻ . Chính những giáo sư trẻ này cùng những giáo sư lão thành trước kia hòa hợp với phụ huynh học sinh đã hướng dẫn học sinh xây dựng nên cái phong cách đặc biệt của trường một thời, về sau thường được gọi là MỘT THỜI PHAN CHÂU TRINH.
Công lao của lớp giáo sư này mãi cho đến năm 1975 thật lớn lao đối với trường, Nếu không thể thay đổi tên trường Phan Châu Trinh thì cái tinh thần và phong cách đặc biệt của trường từ ban đầu cho đến 75 cũng không thể phủ nhận được. Sau 75 trường đã có một gian phòng gọi là Phòng Truyền Thống . Truyền thống gì khi trường chỉ họat động theo chế độ giáo dục xã hội chủ nghĩa chẳng bao lâu ?
Ở trên tôi có nói đến công của Phụ huynh học sinh trường Phan Châu Trinh . Mà thật vậy, thiết nghĩ ít có hội phụ huynh học sinh nào gắn bó với trường như Hội Phụ huynh học sinh Phan Châu Trinh lúc bấy giờ . Hội cộng tác hòa hài với giáo chức và ban điều hành nhà trường, góp ý xây dựng, giúp đỡ trường về nhiều mặt : xây cất phòng ốc, yểm trợ học bổng, tiền để mua phần thưởng mỗi năm…Giáo dục của nhà trường không thể thiếu phần góp sức của phụ huynh, đó một nguyên tắc của giáo dục, Hội phụ huynh Phan Châu Trinh đã giúp đỡ cho nhà trường dễ dàng thực hiện nguyên tắc quan trọng này .Họat động của giáo sư, của phụ huynh và ban điều hành trường chỉ có ý nghĩa khi có thể trợ giúp học sinh tự mình phát trỉển những khả năng, những đức tính tôt đẹp của họ. Sự buồn vui của giáo chức, của phụ huynh do đó tùy thuộc vào thành công hay buồn vui của học sinh.
Đến bấy giờ tôi đã dạy qua nhiều trường và đã ở trong ngành cũng được mười năm nhưng chưa bao giờ làm công việc quản trị,. điều hành một trường đông học sinh như Phan Châu Trinh. Tôi thường lo lắng và suy nghĩ về nhiệm vụ mới của mình. Một điểm mà nhà giáo nào cũng biết là phải gần gũi và hiểu học sinh thì mới hướng dẫn họ đựợc. Thực hiện ý nghĩ này tôi đã nhận dạy Quốc văn ở hai lớp đệ tứ, hai lớp lớn nhất trong trường lúc bấy giờ, dù tôi không có trách nhiệm đứng lớp. Qua những giờ giảng dạy và những cơ hội tiếp xúc ngoài lớp học tôi đã hiểu biết rõ hơn những gì học sinh ước muốn. Cũng như bao nhiêu học sinh khác trên đất nước, họ muốn có những điều kiện học hành tốt, nhưng cơ hội để phát triển tài năng tiềm ẩn như thể thao, như văn nghệ …
Thật tội nghiệp cho tôi ! Suy nghĩ, lo lắng để tìm ra một sự thật đương nhiên . Học sinh ở đâu mà chẳng thiết tha như thế ! Nhưng thật ra cũng có khác biệt. Khác biệt ở điểm những ước muốn trên biểu lộ rõ rệt, mạnh mẻ và chân thành ở học sinh Phan Châu Trinh. Tôi rất vui mừng khi thấy học sinh thi đua để làm “sơ-mi” (đứng đầu) một bài thi và thường xem những thành tích đạt được không chỉ là sự cố gắng riêng tư mà do sự hướng dẫn tốt đẹp của các giáo sư . Tôi xin kể thêm một ví dụ: Năm 1961 vì một sự hiểu lầm của Nha Trung học mà trường Phan Châu Trinh chưa được mở lớp Đệ Nhất . Học sinh Phan Châu Trinh phải vào Trần Quí Cáp (Hội An) hay ra Quốc Học (Huế) để học . Cuối năm Đệ Nhất sau lúc thi Tú Tài 2, những học sinh “đem chuông đi đánh trường người “ phần đông đã có kết qủa thật tuyệt vời và họ đã dành kết quả ấy cho nhà trường, Tuy học ở trường mới nhưng họ vẫn tự xem những kết quả ấy là của trường cũ. Tôi thật vui mừng khi nghe kể lại nhưng cũng ý thức rằng những thành tích ấy là do công lao không ít của các giáo sư nơi trường mới .
Về mặt thể thao văn nghệ anh chị em học sinh Phan châu Trinh cũng đã mang đến cho riêng tôi, cho các giáo sư, phụ huynh, cho tòan trường biết bao nhiêu niềm vui, buồn. Tòan thể học sinh, giáo chức và phụ huynh đã hồi hộp theo dõi diễn biến của các trận đấu bóng rỗ, bóng tròn với sinh viên Đại học Huế, học sinh Quốc học, hay các cầu thủ học sinh miền Trung .
Cũng không thể quên được những buổi cắm trại Lăng Cô, Mỹ Thị … Vui, thật vui đó nhưng niềm lo riêng tư về thành bại, về mặt pháp lý nếu có xảy ra chuyện gì không phải là ít . Nhớ lại giữa đêm khuya ở trại Mỹ Thị bỗng nghe tiếng sáo réo rắt vẳng lên từ một lạch nước sát bên trại .Ý nghĩ đầu tiên của tôi là có một đám người nào đó có ý đồ chẳng lành .Cần tìm cách đối phó, bảo vệ học sinh . Nhưng nhẹ nhõm khi biết tiếng sáo đó là tiếng sáo của một anh “Trương Chi” thổi tặng một “Mỵ Nương” nào đó trong trại .
Những vui buồn cùng học sinh, cùng với trường kể sao cho hết, không những đối với học sinh còn ở trong trường mà ngay cả đối với những học sinh đã rời trường để tiếp tục Đai Học hay các ngành sinh họat khác . Hãnh diện cho trường là nhiều học sinh đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc ở các Đại học trong nước hay nước ngoài hoặc ở những ngành họat động khác…
Nhưng rồi đến lúc chia tay . Cuối năm 1962, với những lý do cho đến nay vẫn mù mịt, tôi được lệnh thuyên chuyển làm hiệu trưởng ở một trường Đệ nhị cấp khác.và sau đó ở nhiều cương vị khác nhau trong giáo dục .Tưởng duyên nợ với trường Phan Châu Trinh như đã hết. Nhưng không, sau khi rời trường một só anh chị em cựu giáo sư cùng học sinh ở trong nước hay ở nước ngòai vẫn lui tới hay thư từ thăm viếng, kể lại những vui buồn và hãnh diện đã từng là học sinh Phan Châu Trinh.
Sau năm 75 cũng vậy, học sinh dù trong hòan cảnh mới vẫn nhớ tới trường . Đã có những cuộc họp Phan Châu Trinh tại Saigon với nguyên tắc không kể đến chính kiến . Những cuộc họp ấy tuy không thành công nhiều nhưng đã chứng tỏ thương trường, nhớ bạn vẫn ấp ủ trong lòng mỗi học sinh Phan Châu Trịnh. Dù cảnh ngộ đã khác. Hội Ái hữu Phan Châu Trinh trong nước, tại Saigon hình như nay cũng có nhiều họat đông nhớ về trường cũ, thầy cũ, bạn xưa … Tôi đã biết những tin tức ấy qua các điện thư từ trong nước gửi ra .
Nhưng họat động của Hội ở nước ngoài, tại Mỹ mới nhắc nhở tôi nhiều cái không khí “MỘT THỜI PHAN CHÂU TRINH” . Tôn trọng và phát huy chủ trương dân chủ của cụ Phan Châu Trinh là một họat động chủ yếu của hội . Kính Thầy Cô, trọng ban bè là một đặc trưng khác . Tham gia những buổi họp mặt của Hội, gặp lại học trò cũ bạn đồng nghiệp xưa tôi như đã sống lại ở một thời kỳ xa xuôi nhưng rất đẹp vì đầy tình thương yêu dưới mái trường.
Nguyễn Đăng Ngọc