
We have 122 guests and no members online
Ni Sư Thích Trí Hải - Thời Gian du học tại Princeton Hoa Kỳ 1964
Kể chuyện Vỹ Dạ xong lại kể đến chuyện thầy, chuyện bạn. Cô quay sang hỏi:
- Chị Oanh còn nhớ những buổi trưa ở lại trường học ôn bài thi không? Hồi đó người mô cũng “gạo” cả (gạo là chăm chị học lắm), lại tinh nghịch nữa. Trí Hải thì nghịch như con trai, không thua bạn bè chút mô hết .
Trong lúc vui câu chuyện, tôi quên là mình đang nói với một Ni Sư nên trả lời ngay:
- Ngày Cô là nữ sinh Đồng Khánh, với áo trắng tóc thề, dễ thương lắm, mắt sáng, da trắng mà má lại ửng hồng, xinh xắn, dịu dàng, duyên dáng còn hơn thơ chị Hỷ Khương tả nữa đó. Chị Hỷ Khuông ngâm cho mọi người nghe đi.

Chiếc nón nghiêng vành, bờ vai tóc xoã
Dáng yêu kiều hiện rõ nét thơ ngây
Đẹp làm sao đôi má hây hây
Thương biết mấy làn môi đỏ thắm
Tiếng ngâm vừa dứt, chị Kim Ba khen:
- Mấy câu thơ là đúng y hệt Cô thời đi học, dễ thương rứa đó.
Chị Hỷ Khương lai phán thêm một câu:
- Dễ thương vậy mà nghịch ngợm quấy phá khỏi chê, phải không Cô?
Cô mỉm cười vui vé kể:
Một hôm trong lớp học Anh văn, thầy Tôn Thất Hanh (*) đang giảng bài, bỗng tiếng ve kêu inh ỏi vang lên trong lớp, các bạn nghe ve kêu cùng nhau cười ré. Thầy bảo trò nào đưa ve vào lớp thì đứng dậy. Các anh chị biết ai đứng dậy không? Trí Hải đó. Trí Hải ghi lại kỷ niệm vui nầy qua bài thơ:
Thầy dạy con Anh văn
Mấy năm trường Đồng Khánh
Phong cách thầy nho nhã
Kiến thức thầy uyên thâm
Thầy phê con học giỏi
Nhưng nghịch như con trai
Vào lớp ưa quậy phá
Làm chia trí mọi người
Một lần kia vào lớp
Mang theo chú ve sầu
Con giấu kỹ trong cặp
Tới giờ nó kêu râm
Cả lớp nổi cười ầm
Thầy phạt con đứng lên
Nói được ve tiếng Anh
Thầy mới cho ngồi xuống
Con gãi đầu lúng túng
Thầy bảo con lên bảng
Viết chữ Cicada
Rồi cho con về chỗ
Cô giỏi sinh ngữ từ thời đi học. Những buổi trưa cùng nhau ở lại lớp ôn bài, ai cũng ngạc nhiên thấy Cô học tự điển. Nghĩa những chữ thật khó Cô đều biết. Bạn bè cho Cô biệt danh là “Cuốn tự điển sống”.
Trích bài viết “ Tưởng nhớ Ni Sư Trí Hải” của Phạm Thị Hoàng Oanh, đăng trong Lá thư Phượng Vỹ 2006, USA, trang 124
—————————
Ghi chú: Thầy Tôn Thất Hanh (lớn) dạy Anh văn ở trường Đồng Khánh, thầy Tôn Thất Hanh (nhỏ) dạy Hoá học ở Đại học Sư phạm Huế
Bài do TDT chuyển đến

Thơ: Kim Thành
Còn đâu nữa những giờ chờ lên lớp
Tiếng trống dồn rộn rã giục hồn ta
Mắt nhìn gần nhưng lại thấy thật xa
Bởi trí tưởng len qua từng cửa lớp
Còn đâu nữa sách thơm màu hạ trắng
Nắng hanh vàng ôm ấp lụa Hà Đông
Giọng vang vang thong thả nhã tơ tằm
Đem mộng ước ươm mầm non hy vọng
Cô giáo trẻ ngày xưa là tôi đó
Bỏ dòng sông thơ mộng tuổi học trò
Sân khấu hội trường tiếng gọi líu lo
Làm người lớn băng đèo về xứ Quảng
Mây lãng đãng trôi theo cùng năm tháng
Mái tóc dài gởi lại đất Thần Kinh
Đại học hẹn hò giờ cũng làm thinh
Không níu được bước chân đời chấm phá
Tóc ngắn giày cao phấn hồng tô má
Tôi vào đời vội vã chút hư hao
Nghe xôn xao chim vỡ tổ gọi đàn
Hồn mở rộng tình xanh như lá thắm
Thương thương lắm bảng đen mờ bụi phấn
Mắt thơ ngây ẩn hiện bóng Thiên thần
Bỡ ngỡ, đợi chờ, nghịch ngợm, vu vơ
Là tất cả bài ca dao một thuở
Những học trò tôi bây giờ bên nớ
Có mơ về tình tự đã xa bay
Có cùng trăng khơi giấc mộng vơi đầy
Hòng kỷ niệm thăng hoa đời viễn xứ
Ngày trở lại quê hương buồn tư lự
Cây phượng hồng đợi gió đứng chơ vơ
Thật hay mơ sao ta thấy hững hờ
Niềm thông cảm sao chừng như chẳng có
Cô giáo trẻ ngày xưa là tôi đó
“Phấn trắng bảng đen in dấu một đời
Kim Thành
April/2006

TDT chuyển đến
Chiều hôm nay trên hành lang lớp học
Anh lang thang tìm kiếm một mùa xuân
Mấy mươi năm bên cửa lớp sân trường
Anh còn gì ? Hỡi tình yêu bé bỏng
Bỗng bất chợt thấy lòng mình như sóng
Trôi miên man với nhớ bến nhớ bờ
Ngày tháng qua theo con nước lững lờ
Anh còn gì ? Ơi người thầy tội nghiệp
Mùa hè cứ qua, muà thu cứ tiếp
Anh bảng đen và phấn trắng muôn đời
Ân nghĩa đầu môi chót lươĩ mất rồi
Anh còn gì ? Ờ, mái đầu bạc trắng
Anh ở đó như con tằm nhả tơ
Dệt tương lai cho lớp lớp học trò
Học trò ra đi cùng trời cuối đất
Anh một mình bên cửa lớp trơ vơ
Mái ngói tường kia rêu phong mấy phen
Hồn anh cũng rêu phủ khắp trăm miền
Nghe nhạt nhoà theo từng trang sổ điểm
Bục giảng âm thầm nhớ nhớ quên quên
Cây cỏ sân trường cùng anh lớn lên
Chia sẻ cùng anh bao nỗi vui buồn
Cỏ cây vô tri còn anh thao thức
Thấy cả đời mình như tấm bảng đen
12 - 1994
Trần Hoan Trinh

Những Ngày Phan Châu Trinh
Thơ: YLA Lê Khắc Ngọc Quỳnh
Hải Vân mây trắng tìm nhau,
Sương mờ lãng đãng trôi mau đỉnh đèo,
Chiếc khăn quàng tím nhẹ theo,
Hơi thu nhuốm gió heo may trở về,
Mắt buồn, mi chớp, gió nghe,
Nao nao đếm tiếng giờ đi kéo dài,
Dòng xe lên xuống hải đài,
Biết sao lòng kẻ ai hoài chờ mong
Thứ bảy nầy, thứ bảy trông,
Một tuần đằng đẳng Huế chong đèn chờ,
Mây mù tím lạnh trời cao,
Lắm lúc gặp Huế trăng sao đã đầy.
![]()
Phan Châu Trinh Ngày Ấy
YLA Lê Khắc Ngọc Quỳnh 
Hải Vân, Đà Nẵng, Châu Trinh,
Ai cho tôi những tháng ngày dễ thương,
Tìm đâu nơi chốn học đường,
Tình còn trẻ mãi vấn vương tháng ngày
Trường xưa thuở ấy thưa cây,
Phượng xưa chưa đủ là gầy còn xanh,
Sân xưa chưa bước cát vàng,
Lớp xưa hai dãy hàng ngang tường vàng,
Thứ hai nhẹ bóng cờ bay,
Những tà áo trắng ngát đầy hương thơ,
Mắt ai thơ thẩn dại khờ,
Những ngày xưa ấy mong chờ đừng trôi,
Bao nhiêu năm đã qua rồi,
Nhớ về trường cũ bồi hồi nhớ thương …
![]()
Trường Phan Châu Trinh
Viết cho những học sinh của buổi “đầu đời “ dạy học
Y-La Lê-Khắc Ngọc-Quỳnh
Hải Vân vời vợi mây xanh,
Ngàn cây hoa lá nắng hanh đợi chờ,
Xứ Đà có con sông thơ,
Qua dãy phố ngắn là trường Châu Trinh,
Bỡ ngỡ, tôi nói một mình,
Xin cho tôi được vuông tròn mộng mơ,
Giữa sân trường Phan bơ vơ,
Hàng cây phuợng nhỏ đang chờ nắng lên,
Sân trường cát trắng mênh mông,
Cho đôi chân dại ngập ngừng âu lo,
Từ giã áo trắng học trò,
Tôi ôm theo mộng làm cô giáo người,
Lần đầu vào lớp, trời ơi,
Các em đứng dậy mà tôi lạ lùng,
Nhìn em bối rối cả lòng,
Tôi e ấp nói: “… lần đầu gặp nhau,
“Xin là người bạn tâm giao…”,
Rồi thôi … e lệ… tôi như… học trò,
Mà cả lớp là thầy cô,
Bên tiếng cười trẻ, má cô hồng đào,
Thẹn thùng tôi cúi xuống chào,
Giờ đầu bài dạy, sao dài ba thu,
Thế mà ngày tháng qua mau,
Ba năm ở đấy giấc mơ đẹp ngời,
Trường Phan tôi nhớ mãi hoài,
Bên người trò nhỏ, người em buổi đầu,
Thời gian trôi đã bao lâu,
Chúng tôi gặp lại mái đầu điểm sương,
Phan Châu Trinh, buổi tơ vương,
Những người xưa ấy dễ thương đến giờ,
Cho nên kỷ niệm thành thơ,
Niềm an ủi lớn, những giờ ly hương.

Y-La Lê-Khắc Ngọc-Quỳnh
(Toronto, 1997)
(Trình bày trong Đại Hội ngày 5-7-2009)
Kính thưa Quý Thầy Cô
Cùng các bạn Đồng môn thân quý,
Trong buổi gặp mặt hôm nay bên cạnh hoài niệm nhắc nhở cựu học sinh Phan Châu Trinh , chúng ta nhận thấy ra một điều kỳ diệu rất đổi cảm động và đáng tự hào ...Bởi từ mái trường ấy đã có những Thầy, Cô hiện thân nơi lớp học trong cuộc sống những nhân cách cao quý của một thế hệ Người Dạy Học, mà nay sau hơn 30 năm sau 1975 , chúng ta có thể khẳng định mà không sợ phần chủ quan quá độ .
Đã có một lần nơi Miền Nam ở Việt Nam hằng hiện diện một tầng lớp những nhà giáo dục hiện thực qua nhiều thế hệ Người Thầy kiến tạo nên cho xã hội những Học Trò biết sống xứng đáng với phẩm giá cao quý Con Người .
Thế nên , nhân buổi lễ này chúng tôi xin được nhắc nhở danh tính tôn quý của hai Người Thầy từng có mặt trên bục giảng của Trường Phan Châu Trinh và đã tạo dựng nên những học trò tốt, xứng đáng với danh hiệu của ngôi trường mang tên Nhà Cách Mạng Lớn của Dân Tộc Việt – Phan Châu Trinh, mà đến thế kỷ 21 này với tình hình của Việt Nam hiện tại, lý tưởng chủ đạo và phương thức hành động của Người vẫn còn nguyên giá trị trong thực tế lẫn lý luận .
Trước tiên là Thầy Trần Đình Quân , Giáo Sư Phan Châu Trinh , Trưởng Đoàn Du Ca Đà Nẵng suốt một thời gian dài từ 1961 trong những ngày quê nhà vọng tràn tiếng súng , và lòng người luôn nặng chĩu băn khoăn cho đến 30 tháng 4 , 1975 . Thầy , trò , cùng ngôi trường một lần hứng chịu cảnh nổi trôi .

Thầy Trần Đình Quân mất đi sau cơn bạo bệnh kéo dài suốt một thập niên (1993 – 2003) tại Nam Cali . Nhưng sau lần trở về nơi chốn vĩnh hằng , Thầy đã để lại cho những người học sinh Phan Châu Trinh nơi hải ngoại cũng như ở trong nước , mối xót xa của một tấm lòng luôn thao thức cùng vận nước và Nỗi Đau Nhân Sinh như câu hát của Lý Văn Chương , một học sinh Phan Châu Trinh trước mộ huyệt của Người Thầy , cũng là Người Anh ( với nghĩa cao qúy đầy đủ nhất ) : “ Anh đã dạy cho tôi nỗi Đau của Con Người...Ta vẫn còn có nhau trong đời bởi hằng nhớ đến nhau ...”
Thầy Trần Đình Quân , Giáo sư Phan Châu Trinh vẫn sống mãi với chúng ta như Khúc Tình Ca Xứ Huế hằng âm vọng như sông nước quê hương ...Như câu hát luôn sáng ngời niềm lạc quan hi vọng dẫu cuộc sống đầy dẫy bao điều đắng cay ...
“ Hát là để cho đời không phải hát để quên đời ...Quê hương ta còn đó với bao nhục nhằn...Trên quê hương dù cho tan nát điêu tàn...Chúng ta vẫn hát để cho đời không phải là để quên đời ...”
Người Thầy thứ hai là Nữ Giáo Sư có thể danh là Công Tằng Tôn Nữ Phùng Khánh cũng là Ni Sư Pháp danh Tâm Hỷ , Pháp hiệu Thích Nữ Trí Hải . Nữ Giáo Sư Phùng Khánh xuất thân từ một danh gia vọng tộc nhiều đời thâm tín Phật Giáo . Thân phụ là Cụ Nguyễn Phước Ưng Thiều , thuộc Phủ Tuy Lý Vương , dòng Vua Minh Mạng .
Công Tằng Tôn Nữ Phùng Khánh (ngoài cùng bên trái) và gia đình

Giáo Sư là con thứ năm trong gia đình có sáu anh em . Bởi có túc duyên sâu xa đối với Phật Pháp nên lúc còn là thai nhi ba tháng , Giáo Sư đã được sớm Quy Y Tam Bảo với Đức Đệ Nhất Tăng Thống Thích Tịnh Khiết .
Từ buổi thiếu thời vào những ngày đang học bậc trung học , Giáo Sư với thiên tư thông tuệ tài hoa , phẩm cách thanh cao đã nuôi chí xuất gia giữa tuổi hoa niên . Dẫu đã muốn mau chóng trở thành đệ tử nhà Phật , nhưng có lẽ do từ một cơ duyên tốt lành , Trường Phan Châu Trinh đã được hân hạnh đón Người vào lớp học sau khi Giáo Sư tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm .
Năm 1964 Giáo Sư quyết dứt trần duyên , cắt tóc xanh rời trường học xuất gia tại Chùa Hồng Ân , Huế . Năm 1970 Giáo Sư Phùng Khánh nay là Ni Sư Trí Hải thọ giới Tỳ kheo Ni và Bồ Tát Giới tại Đại Giới Đàn Vĩnh Gia tổ chức tại Đà Nẵng .
Ngoài những hoạt động giáo dục hoằng pháp , Giáo Sư Ni sư còn dành nhiều thì giờ cho việc phiên dịch , biên soạn và in ấn kinh điển để giúp Tăng Ni , Phật Tử có thêm tài liệu nghiên cứu , học tập mà tổng số lên đến cả trăm tác phẩm .
Đặc biệt nổi tiếng là những bản dịch của các danh tác Câu Chuyện Dòng Sông của Đại văn hào Hermann Hesse, Ghandi Tự Truyện , Câu Chuyện Triết Học , Thanh Tịnh Đạo Luận , Tụng Thư Sống Chết , Giải Thoát Trong Lòng Tay ...
Không những chỉ tham gia vào sự nghiệp văn hóa , giáo dục , cuộc đời Giáo Sư Ni Sư gắn bó mật thiết với thân phận của đồng bào nghèo khó , khổ đau khắp mọi miền đất nước , nhất là sau năm 1975 ở Việt Nam . Sau cuộc đổi đời xả thân với Đạo Pháp Cuộc Sống và Nhân Sinh , vào năm 2003 Người lâm đại nạn trên đường đi cứu trợ đồng bào nghèo , hưởng thọ 66 tuổi đời như một đóa Ưu Đàm ngát hương chợt bị bão tố vô thường cuốn đi vào cõi vô cùng .
Nữ Giáo Sư Phan Châu Trinh , Ni Sư trí Hải với một công nghiệp vĩ đại , quả là một danh tính rạng ngời cao quý mà người học trò Trường Phan hôm nay có thể nhắc lại với cảm xúc hãnh diện : Giáo Sư Phùng Khánh , Ni Sư Trí Hải là Cô Giáo của trường chúng tôi .
Phan Nhật Nam