Trung Học Phan Châu Trinh

User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active

 TinhbenxeDap2

Có bao giờ em về ngang trường cũ

Nhắn giùm anh cây cỏ ngủ ven đường

Dù phiêu bạc mãi hoài nơi xứ lạ

Vẫn một lòng hoài nhớ một quê hương

Anh vẫn nhớ những tháng ngày năm ấy

Tay trong tay ta chập chững vào trường

Hàng phượng đỏ đón chào em đến lớp

Chút nắng vàng ngây ngất một mùi hương

hoa phuong hay nhat 10


Anh vẫn nhớ em ngồi đầu lớp học

Nắng sân trường len lén đến bên song

Từ cuối lớp anh bồi hồi ngây ngất

Mới buổi đầu suy nghĩ đã lung tung

Bài thầy giảng bỏ quên ngoài cửa lớp

Bởi trong anh chớm một mối tình si

Thầy có phạt, vẫn trộm nhìn em mãi

Hương bưởi nồng như sương khói tan đi

Em có nhớ về thầy K. dạy toán

Vẽ vòng tròn , tay phải trái như nhau

Hay thầy Khải, ngày đầu vào lớp học

Bạn nữ cười, thầy đỏ mặt quay mau

Anh vẫn nhớ thầy K. môn Vật Lý

Mặt rất hiền nhưng cũng rất nghiêm trang

Mỗi khi giảng cứ như đang ngậm kẹo

Vừa giảng bài vừa nuốt vội vào trong

Còn cô Liệu ơi hiền lành nhỏ nhắn

Lời cô phê trong học bạ năm nào

Anh vẫn nhớ, suốt đời anh vẫn nhớ

“ Giỏi, hiền, ngoan “, ngày ấy , chợt nôn nao

Anh ghét nhất là môn Vạn vật

Dù thầy T. thuở đó giảng rất hay

Anh không thích đem người ra mổ xẻ

Những cái gì trần trụi sẽ không hay

Anh thích nhất nghe thầy Hiền dạy triết

Dáng cao gầy nhưng mạnh mẽ vô biên

Anh cũng thích nghe thầy Lâm Thành Bích

Hướng dẫn mình năm cuối lớp Đệ tam

Năm Đệ Nhất thầy Kính làm hướng dẫn

Anh B 3, em B 4 chia xa

Anh ngồi đó nhớ nhung về lớp khác

Sợ cuộc tình rồi cũng sẽ phôi pha

Em có nhớ, ôi chao ơi là nhớ

Mỗi thầy cô, một khuôn mặt thân thương

Mỗi bóng cây, mỗi lớp học , sân trường

Nhớ con người, anh nhớ cả quê hương

Thay Ngoc

Và quê mẹ có những ngày tăm tối

Rời quê nhà anh bỏ xứ đi xa

Ngày mộng mị và đêm dài quay quắt

Một nỗi buồn sầu thảm lắm em ơi

Ôi, nỗi nhớ, những ngày thơ ấu cũ

Phan Châu Trinh, Đà Nẵng thuở xa xưa

Đời phiêu bạt anh xứ người dong ruổi

Nắng quê người, cứ ngỡ nắng xuân xưa

Anh sẽ mãi không về thăm nơi ấy

Em bây giờ cũng bỏ xứ ra đi

Ngôi trường cũ chỉ còn là kỷ niệm

Và cuộc tình ngày đó đã phân ly

MISA, PCT 1963-70

San Jose 2012

( ĐS Đại Hội Toàn Thế Giới Kỳ IV, California 1 tháng 7  năm 2018 )

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

H10 thay Dao 4 000
̣
Vào những ngày đầu tháng hai năm Tân Mão (2011), cái lạnh của mùa đông dường như vẫn còn khắn khít với mãnh đất Miền Trung một cách “ thắm thiết “ quá ! Thường lệ, trong các buổi họp mặt bạn cũ trường Phan Châu Trinh niên khóa 1954-1960 , lớp do các anh Đoàn Văn Đạo. Trương Văn Tình, Mai Chánh Trí ( đã mất ), Tôn Thất Chơn Tu, Giang Lý Đương, Nguyễn Hữu Hùng, Đàm Văn Chí ...và các chị Thái Thị Hoài, Nguyễn Thị Khẩn, Châu Thị Mai, Lê Thị Kim Cúc...,( trong những năm gần đây có thêm chị Võ Thị Thương ở Canada về thăm quê ) vẫn thường đến tham dự các ngày họp mặt của nhóm.

Riêng tôi, Trương Duy Hy và luật sư Lê Xuân Hạt được các anh chị trong nhóm gọi là “ những chàng rể của lớp “ nên, với tôi thì được thay mặt Thanh Thảo ( Trần Thị Thảo Em, nk 54-60, đã mất ) , được nhận quyền lợi như lúc nhà tôi còn tại thế.

Trong các niên khóa từ 1951 đến niên khóa 1975, vì hoàn cảnh thực tế của đời sống , các bạn không cùng một lớp tập họp đầy đủ các anh chị đã học tại mái trường thân yêu nầy của chúng ta với con số 24 khóa, nên mới hình thành từng Nhóm theo niên khóa, và Nhóm 54-60 đã hình thành trong hoàn cảnh này. Lại thêm một thực tế nữa là sự gắn bó của anh chị em cùng nhóm, sống trong một thành phố thì dễ dàng liên lạc và gặp gỡ nhau hơn .

Trong các cuộc họp mặt tiễn đưa năm cũ, tiếp đón năm mới, nhóm chúng tôi hay tổ chức ở một nhà hàng nào đó mà các anh trách nhiệm biết rõ các món ăn và giá cả khả dĩ các thành viên trong nhóm hoan hỉ. Có những buổi gặp mặt, nhằm lúc có bạn ở nước ngoài về, tự nguyện đứng ra bao kinh phí cho buổi gặp mặt, thì quỹ của nhóm được giữ lại .

Có lúc không gặp mạnh thường quân, thì ban tổ chức trích quỹ “ xem như nguyệt liễm thường niên “, tuy không dồi dào lắm nhưng cũng đủ để dùng vào tổ chức tất niên, tân niên và nhất là xử dụng trong việc quan, hôn, tang, tế với tất cả tình cảm sâu nặng của các thành viên trong nhóm khi gia đình gặp cơn bất hạnh hay khánh hỷ, nhất là đối với các Thầy, Cô cũ.

Là chàng rể vốn tính “ trung thành “ với bên gia đình nhạc mẫu, nhạc phụ, hầu như chưa bao giờ tôi vắng mặt trong tất cả các buổi gặp mặt có thông báo của trưởng nhóm . Chẳng dấu gì cảm nghĩ của riêng tôi trước sự kiện này, bởi vì chỉ có một nhóm các bạn học cũ đã từng đốt lên được chất ấm lan toả khắp mọi gia đình thành viên chúng ta, những cựu học sinh Phan Châu Trinh Đà Nẵng.

Tình cảm này thắm thiết quá mà, tôi chắc rằng các nhóm khác niên khóa cũng có những niềm vui buồn, thân thương như chúng tôi.

Đối với các Thầy, các Cô, toàn thể thành viên trong nhóm đều có ý thức rằng : các bạn ở xa khó có điều kiện kịp thời cùng đến thăm viếng khi Thầy, Cô lâm bịnh, cũng như gặp lúc Thầy, Cô qua đời ...

Những việc như thế thường được các anh trách nhiệm của nhóm bàn bạc, rồi thay mặt các bạn đến tận nơi thăm viếng với những món quà ân tình , và nếu ở xa thì có điện thư kịp thời khánh hỉ hoặc phân ưu.

Là vai rế của nhóm, nhưng những sự kiện vừa kể trên là dấu ấn trong tôi để tôi quý mến , càng quý mến các bạn đồng khóa nầy. Cụ thể, nhân Thầy Trần Tấn bệnh nặng, nhóm kêu gọi anh em cùng đến thăm. Lúc Thầy qua đời, anh em tập hợp lại cùng đi vào Điện Bàn bái lạy, phụng cúng Thầy và chia buồn cùng tang gia.

Khi Thầy hiệu trưởng Bùi Tấn qua đời, tôi đã cùng anh chị em trong Nhóm thảo điện tín phúng điếu Thầy và nhờ các bạn đồng khóa đang ở Sài Gòn đem đến dâng lên bàn thờ Thầy hương đèn , trà quả như chính nhóm tại Đà Nẵng đến bái biệt Thầy. Bấy giờ các bạn có giao tôi chấp bút kính dâng lên Thầy bài thơ như sau :

KHÓC THƯƠNG THẦY

Tin hung như sét ngang trời

Chúng con sững sốt tơi bời ruột gan

Sao Thầy nỡ chán trần gian

Ra đi Thầy để muôn vàn tiếc thương

Từ khi cách biệt mái trường

Mang theo hình ảnh kính thương của Thầy

Đau lòng chúng lắm Thầy ơi !

 

Thử hỏi thế gian được mấy người

Niết Bàn thanh thản dạo rong chơi

Sử kinh Thầy dạy lừng nhân thế

Giáo lý Thầy khuyên hợp đạo trời

Nhự Lĩnh, Châu Trinh mây phủ lối ( 1 )

Thu Giang Ngưu Chữ lệ mờ khơi (2)

Khấu đầu đệ tử xin cầu nguyện

Cõi thọ đời đời được thảnh thơi

Kính lạy !

Còn việc “ khánh hỷ “, anh em trong nhóm cũng rất chu toàn bổn phận đối với Thầy, Cô. Đặc biệt năm 2003 , các anh Tuấn, Tình được tin Thầy Nguyễn Đăng Ngọc thượng thọ 80 , lập tức tin ấy được truyền khắp các thành viên trong nhóm tại Đà Nẵng. Sau một buổi họp mừng vui vì tuổi thọ của Thầy, các anh phụ trách nhóm cùng các thành viên quyết định làm một tấm thục thêu ba đại tự ở trên cùng và chính giữa có nội dung như sau :

                                                                      ĐẦU  TINH  CAO

                                                           Kính Mừng Thầy Hiệu Trưởng

                                                                NGUYỄN  ĐĂNG  NGỌC

                                                                THƯỢNG THỌ 80 TUỔI

                                                                      Quý Mùi 2003

                                                      Chúng con suốt đời ghi tạc công ơn Thầy

                                           Cựu học sinh Phan Châu Trinh niên khóa 1954- 1960  

Đối với hoàn cảnh bất hạnh của mình trong suốt 40 năm lại đây, có lẽ ở cái tuổi bát thập bây giờ, tôi mới thật sự hiểu hết nhân bản tính đã gắn chặt với đời sống của anh chị em chúng ta. Không ai có thể nghi ngờ  có được ngày nay là vì ngay khi tấm bé, các anh chị, cả tôi nữa đã học, đã được Thầy, Cô giảng giải nghĩa lý của những câu : Tiên học lễ, hậu học văn.

Công Cha như núi Thái Sơn.

Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ Mẹ, kính Cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

Công Cha nghĩa Mẹ, chữ Thầy

Ráng mà học hỏi những ngày còn thơ

Với từng ấy sự kiện, tôi tin rằng anh chị em chúng ta vững tin ở thế hệ tương lai, thế hệ con cháu chúng ta sẽ có những thành đạt cao đẹp hơn để cuộc sống nhẹ nhàng, thanh thản hơn.

Rất mong ước được gặp các bạn trong những dịp họp mặt tại Đà Nẵng, nơi anh chị em chúng ta có quá nhiều kỷ niệm vui buồn lẫn lộn, nhưng rất thắm thiết, rất tuyệt vời.

Thy Hảo Trương Duy Hy

Đà Nẵng, đầu xuân 2012

 

Chú thích : (1) Ngự Lĩnh : Núi Ngự Bình

                     (2) Thu Giang : sông Thu Bồn ( con sông chảy qua sinh quán của Thầy ). Ngưu Chữ : Bến Nghé (con sông chảy qua thành phố, nơi Thầy qua đời )

( ĐS Kỷ Niệm 60 năm thành lập Trường Trung Học Phan Châu Trinh, Đà Nẵng.  Đại hội ngày 1 tháng 7 năm 2012 Anaheim, California )

                                                 

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

 

 ConDuongLamebay13

Cho tôi đi qua con đường ấy

Sớm mùa xuân hay trưa nắng  hạ oi nồng

Đầu mùa thu về hay cuối một mùa đông

Con đường nhỏ hai hàng cây đứng lặng

Nhà người đó lầu cao cửa đóng

Lối ngõ buồn lá me rụng miên man

Chân tôi đi trên kỷ niệm từng trang

Mỗi bước chậm thương  mặt đường sỏi đá

Người còn nhớ thuở nắng hồng đỏ má

Người ấp e nhìn lên chấn song cười

Gió bên thềm thổi nhẹ lá me rơi

Cho huyền ảo đôi mắt người tha thiết

Lời chưa ngỏ đã thấy lòng bất diệt

Xao xuyến đam mê giữa rung động đầu đời

Nghe đắm say một tình yêu tuyệt vời

Như mật ngọt , như nguồn thơ lai láng

Rất đổi thủy chung  rất nhiều lãng mạng

Vai kề vai đi gữa lá me rơi

Tóc ai bay che kín cả bầu trời

Nên hôm nay tôi vẫn cứ đi về

Tìm chút hương xưa trên con đường ấy

Nghe dưới chân lá me vàng run rẩy

Nghe quanh mình gió động lá me chao

Ngóng mây trời tìm kiếm một vì sao

Đã có lần hai đứa nhìn cầu nguyện

Xin tình đẹp như sao trời vĩnh viễn

Sáng long lanh vời vợi  giữa bao la

Và mênh mông như suối một ngân hà

Để thầm nhủ tình vẫn còn ở đó

Em vẫn đứng xỏa tóc dài chờ đợi

Dầu tháng năm đã dâu bể đảo điên

Lá me buồn bay lả tả bên em ...

ConDuongLamebay6

Trần Hoan Trinh

(  “ Bỏ Trường Mà Đi “, 2002 )

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

 PCT CongHocTro1

Tất cả người Việt Nam đều yêu nước . Đặc biệt đối với người Việt sống xa Quê Hương, bên cạnh lòng yêu nước còn có niềm ước mơ được tận mắt nhìn ngắm cảnh đẹp của Quê Hương , mơ được tận tai nghe tiếng nói thân quen của đồng bào mình râm ran từ làng quê lên tới phố chợ...Những ước mơ gần gủi nhưng xa xôi kia đã khiến người Việt hải ngoại ngày càng tích cực phát triển những sinh hoạt cộng đồng khác nhau : mở rộng tổ chức đồng hương , xây dựng hội đoàn cựu học sinh ...

Điều đáng suy nghĩ là sự thể  : Hội Cựu Học Sinh Trung Học Phan Châu Trinh Đà Nẵng từ rất nhiều năm qua. Các Đại Hội, các Kỷ yếu của đại hội đều xoay quanh và chỉ xoay quanh chủ đề Trường Xưa. Tại sao nói tới Trường xưa , không hề bàn tới hiện tại, lại càng không thắc mắc gì tới tương lai ? Thế nào là Trường Xưa ? Trường Xưa là trường thuộc hệ thống giáo dục của Miền Nam Việt Nam trước 1975, được vận hành theo tư tưởng chỉ do  : “ Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng “. Từ đó Trường Xưa sinh sản ra mẫu trí thức tri hành cân bằng trên ba mặt triết học, sử học và khoa học.

Thế nào là trường hiện tại ? Trường hiện tại là trường của CSVN : Ngày 5 tháng 3 / 2018 Cô giáo trường tiểu học Bình Chánh vì miếng cơm manh áo , phải chấp nhận quỳ gối xin lỗi một đảng-viên-phụ-huynh-học-sinh .
Cogiao phai quy xin loi2
Ngày 5 tháng 4/2018 tại trường trung học Trần Hưng Đạo, Quảng Bình, Thầy gíao đã bị nam sinh đâm lủng bụng chỉ vì thầy khuyên trò không nên xâm hình ở cổ.

Thaybidamlungbung1
Thế nào là trường tương lai ? Trường tương lai là trường sống dưới chế độ Tàu thuộc. Một trong những công việc chuẩn bị cho ách nô lệ Tàu là sự việc đảng CSVN qua tay “ Phó giáo sư “ Bùi Hiển đang nổ lực phá hoại tiếng Việt dưới danh nghĩa cải tiến tiếng Việt ( Bùi Hiển viết là “Tiếw Việt”).

BuiHien1
Nhìn chung, sau 30/4/1975 giáo dục Việt Nam thực sự lâm nguy : hiện tại tối tăm , tương lai là hố thẳm . Bằng cách nào giáo dục Việt Nam có thể hồi sinh ? Câu trả lời là sự gợi nhớ tập tục rước đuốc, trong các đại hội Olympic thế giới.

Mùa hè 1936 , tại thành phố Olympia, Hy Lạp, lần đầu tiên ngọn đuốc Olympic được thắp sáng. Thế rồi cứ bốn năm một lần, đuốc Olympic lại ân cần chạy từ quốc gia vừa bế mạc Olympic đến quốc gia sẽ mở hội Olympic. Chạy đuốc như vừa kể, giới lực sĩ Olympic muốn diễn tả tính bền bỉ và liên tục của một công lý : Đời người chìm nổi vô lường, tình nhân loại vẫn bất diệt .

Đại hội Phan Châu Trinh không có bó đuốc rập theo hình ảnh đuốc Olympic . Tuy nhiên, đuốc thiêng là biểu tượng tình cảm nồng cháy hướng về một tương lai thịnh vượng và công bằng . Mỗi thành viên của Phan Châu Trinh khi về dự đại hội đều mang theo trong tâm tưởng, một đuốc Phan Châu Trinh. Ngọn đuốc này là lời nhắc nhở chúng ta ý nghĩa của “ hương lửa ba sinh “ . Qúa khứ, hiện tại và tương lai gắn bó với nhau chẳng khác nào như khói với lửa. Hướng tới tương qua ba sinh, mỗi cựu học sinh Phan Châu Trinh có ba nghĩa vụ :

Một là đối với quá khứ : Tri ân quá khứ, tri ân công lao Thầy gíao, Cô giáo. Tri ân tiền- nhân-gíáo-dục đã trao truyền cho chúng ta các loại hành trang văn hóa cao quý.

Hai là đối với hiện tại : hợp tác với tuổi trẻ trong quyết tâm giải trừ ách thống trị của bạo quyền CSVN, kiên trì xây dựng một Việt Nam : chính trị dân chủ, nhân quyền, giáo dục dân tộc, khai phóng, nhân bản.

Ba là đối với tương lai : Đừng bao giờ quên lời dặn dò của Ông Cha : người Tàu là kẻ thù tuyệt đối của Việt Nam . Mỗi Phan Châu Trinh trong mọi tình huống, bao giờ cũng phải, cùng với các thế hệ nối tiếp, suy nghĩ theo dân trí, hành động theo nhân khí : bền chí, quyết liệt và dũng cảm chống trả cuộc xâm lăng triền miên và hiểm độc của Hán tộc.

Bây giờ, nội dung đuốc Phan Châu Trinh đã được phân tích và xác định. Đại hội Phan Châu Trinh không đơn giản chỉ là cơ hội để các “ Lão Trượng Giáo Sư “, các “ Cụ ông, Cụ bà Cựu Học Sinh “ ân cần thăm hỏi nhau bằng tâm tình trầm buồn của những người đang tới gần hoặc đã vượt xa tuổi thất thập . Đại hội Phan Châu Trinh là một môi trường giúp cho đuốc Phan Châu Trinh ngày càng sáng hơn, nóng hơn với quan điểm nhân sinh hoàn tòan sống động và tích cực. Cái sống động và tích cực kia chính là sự khẳng định :

Mỗ đaị hội Phan Châu Trinh là một thái độ hiên ngang tuyên xưng quá khứ giáo dục vàng son của chế độ VNCH. Đồng thời nó cũng là lời ngợi ca sâu sắc nhất hướng về tình thân ái giữa Thầy Trò, giữa bạn đồng môn.

Mỗi đại hội Phan Châu Trinh là một nghi thức nhắc nhở rằng trong nghĩa vụ đấu tranh cho sự hanh thông của lịch sử, không có vị trí dành cho thói tục phân biệt tuổi tác hay giới tính và rằng các thế-hệ-Phan-Châu-Trinh quá khứ, hiện tại cũng như tương lai hãy quyết tâm biến tư tưởng dân khí của Phan Châu Trinh thành hành động quyết liệt chống ngoại xâm Tàu nhằm mở đường cho sự hồi sinh của giáo dục Việt Nam .

Đỗ Thái Nhiên

( ĐS Đại Hội Toàn Thế Giới Kỳ IV, California 1 tháng 7  năm 2018 )

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

 

Perfume River in Hue 1

Nước là “ cái hữu “ của sông . Nước cạn, sông không còn . Tuy nguyện thề “ sông cạn đá mòn “ một lòng chung thuỷ , nhưng sông cạn thường là đổi thay, tan vỡ não nề :

Sông kia rày đã nên đồng

Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai

( Trần Tế Xương )

Sông và nước là nguồn sống, nên con Người, từ ngàn xưa , bám theo sông mà sống. Con Người cũng lớn lên từ  sông. Nhờ nước của sông, hai miền tiếp cận dần dà trù phú, trở thành những chiếc nôi văn hóa, mở đường cho nhân loại tiến bộ. Từ điểm ban đầu chất phác, giản đơn, con người đem khả năng sáng tạo vô biên khai thác lợi thế của sông, đưa con người đến văn minh, miên viễn . Kim tự tháp, đệ nhất kỳ quan thế giới, là tặng phẩm của giòng Ni-la. Lưu vực Ấn – Hằng, Hoàng Hà, Hồng Hà, Cửu Long ...đã trao lại cho thế nhân và dân Việt khuôn mặt rạng rỡ hôm nay và mai sau .

Nước là cốt lõi của sông, giúp cho sông hiện hữu. Căn cước của sông cũng vì đó là căn cước của nước. Hầu như là thông lệ chung trên toàn cầu, sông mang tên màu nước hay một thể tính của sông.

Gọi Hoàng Hà “ sông màu vàng “ , vì nước mang  đầy bụi ( hoàng thổ ) từ sa mạc Nội Mông trước khi “ đáo hải bất phục hồi “.Khái Hưng ví gìong sông Hồng no đọng phù sa đỏ như “ một vũng máu “, “ một nghiên son “ : “ ...chiếc thuyền khi ẩn , khi hiện trên làn nước phù sa, như chiếc lá tre khô trong vũng máu, như con muỗi mắt trong nghiên son “  ( Anh phải sống – Khái Hưng ) .

Giòng sông vươn mình qua quê hương của Phan Bội Châu có tên là Lam Giang vì mặt nước nhuốm màu xanh biếc vào độ thu sang .

Sông Mã, nước chảy cấp kỳ như vó ngựa ruổi rong. Cửu Long là thân rồng chín khúc đổ ra Nam hải.

Danube bất tử với bản tình ca Giòng Sông Xanh.

Strauss coverE

Mang tên “ Colorado “ vì con sông kỳ lạ đó đã len vào giữa hai vách đá long lanh màu hồng. Màu đá chiếu rọi xuống mặt nước nhuốm đỏ cả giòng sông .

Có thể kể thêm rất nhiều con sông tên tùy vào chiếc áo màu sông đã mặc hay dáng dấp yêu kiều của giòng nước. Và thật là một điều kỳ thú nếu nghiên cứu được hết ý nghĩa tên các giòng sông trên thế giới !

Tuy nhiên sông không nhất thiết mang tên màu nước, thủy tốc hay hình khe thế nước. Tên sông có thể từ xa xưa truyền lại rồi cứ thế mà gọi , chẳng lý gì tới ý nghĩa. Lắm khi sông lại mang tên một địa phương gặp gỡ trên đường vươn mình ra biển : Sông Hàn, sông Bến Nghé...

Tên sông có khi là biểu thị một lý tưởng hay nhắc nhở một kỳ công, một kỷ niệm lịch sử. Sông Kwai với chiếc cầu nổi tiếng, được coi như một thành tích của công binh Anh trong cuộc hành quân chống Nhật. Sông Elbe, không mờ phai trong trí nhớ loài người vì nơi đây hai cánh quân đồng minh Đông – Tây bắt tay nhau để kết thúc một cuộc chiến tàn khốc .

Sông Bạch Đằng là niềm kiêu hãnh chống Tống, chống Nguyên của dân ta, nhưng sông Gianh và Bến Hải là những vết chém ngang lưng và năm tháng chiến tranh tương tàn .

Sông tải nguồn sống cho toàn thể nhân loại và riêng cho mỗi dân tộc. Núi liền với sông và đất liền với nước. “ Núi sông “ , “ đất nước” có một giá trị thiêng liêng cho mỗi dân tộc và với mỗi người. “ Sơn cao, thủy thâm “ , có thể nói không sai, sông nước đã qui định bộ mặt văn hóa , chính trị, kinh tế, quân sự...của toàn cầu, của mỗi quốc gia, của từng địa phương và ngay cả mỗi một con người. Không có sông, nước, quả đất chỉ là một hành tinh khô cằn, và chắc chắn nếu còn sống sót, con người cũng khô cằn theo .

Sông là bảo vật trời ban  cho con người, không có giòng sông nào không đáng trân trọng, mến yêu . Nhưng trong tất cả giòng sông ghiện hữu , chúng ta thường chỉ gắn bó , thiết tha riêng với một giòng sông , giòng sông của tuổi thơ, giòng sông nơi chúng ta cất tiếng chào đời.

Joachim Du Bellay ( thi sĩ Pháp hồi thế kỷ 16 ) mặc dù chức trọng quyền cao giữa La Mã kiêu sa, vẫn nhớ nhung héo hắt tới con sông nhỏ, ngọn đồi thấp nơi quê nhà :

Plus (me plait) mon Loire gaulois que le Tibre Latin

Plus mon petit Liré que le mont Palatin

( Tạm dịch : Tôi mến yêu giòng Loire và ngọn đồi thấp Liré nơi quê nhà hơn sông Tibre và núi Palatin hùng vĩ xứ người ).

Và tôi có vòng vo tam quốc về tên sông, về tầm mức quan trọng của sông, về sông và cuộc sống ... thật ra chỉ muốn mượn cái chung lớn lao để quay về với con sông riêng của đời tôi : Con sông thời thơ ấu , trong hoài niệm, trong hiện tại đau thương và tương lai mờ mịt. Đó là giòng Hương giang  chảy qua cố đô Huế. Giòng sông đã cảm xúc biết bao tao nhân mặc khách và khuôn dạng nên tâm hồn người Huế, trong số có tâm và hồn nhỏ bé của tôi .

Song huong xu hue 4R

Tôi sinh ra không xa bờ sông Hương, ở một làng thơ mộng thuộc tổng Ngọc Anh , nhưng đã trưởng thành , lớn lên và đi học, rồi sau bao nhiêu năm tháng xa cách trở về sống ngay bên bờ sông Hương. Sông Hương đã chứng kiến cuộc đời thay đổi của tôi , cũng như tôi đã từng chứng kiến cái thay đổi của thành phố và của giòng sông .

Nhà tôi nằm trên bờ sông Hương và trường học tôi nhìn thẳng ra bờ sông. Ngày ngày cắp sách đến trường, đi dọc theo bờ Sông Hương và con sông ấy đã ghi lại bao nhiêu kỷ niệm yêu mến, vui buồn  của đời tôi .

Những ngày hạ nắng , thật là một niềm vui vô bờ được tắm mát trong giòng Hương giang . Mỗi chiều tan học, vứt chiếc xe đạp cổ lỗ, áo quần và cặp sách ở bến đò Thừa phủ, lội ngược giòng sông lên gần đến cầu Bạch Hổ . Một mình giữa sông nước mênh mông, êm mát dịu dàng hay chợt lạnh tùy theo làn, tôi cảm thấy vui miên man, nhẹ nhàng và sâu đậm được đắm mình vào nguồn sống của quê hương . Có lúc may mắn gặp chiếc bè lồ ô ( nứa )  hay gỗ súc từ thượng ngàn trôi về . Xin phép trèo lên bè , ngắm cuộc sống đơn giản của người chèo bè trong chiếc chòi tranh nhỏ bé với một bếp lửa gồm ba phiến đá và nhìn cảnh vật hai bên bờ, nhà cửa, trường học, bệnh viện, vọng thành ... lùi dần về sau , chìm vào trong khói lam chiều , trí óc thơ ngây tưởng tượng như đã đến từ một phương trời xa thẳm để về một nơi vô định mênh mông .

Trở về bến Thừa phủ lúc trời đã nhá nhem tối ; aó quần, sách vở và chiếc xe cũ kỹ vẫn còn đó . Không phải đồ vật chẳng có giá trị gì nhưng trong cuộc sống hiền  hoà không ai muốn lấy đi để làm phiền muộn một đứa học trò nhỏ bé . Có hôm trên bến sông vắng vẻ, bóng một cụ già thẩn thơ chờ đợi, nhìn giòng nước lo âu . Lúc thằng bé vô tư lên chiếc xe xọc xạch vội vã trở về, cụ già cũng lững thững bước đi, mừng thầm con cái nhà ai không quá dại dột. Bấy giờ học trò ở Huế không phải là đứa bé riêng tư của một gia đình nhưng là đứa bé chung của mọi người, được thương yêu và đùm bọc. Người ta bao dung với học trò, bênh vực học trò, dù có con hay không có con cắp sách đến trường.Cửa tiệm, nhà hàng không mấy ai nói thách với học sinh, ngay cả những người bán quà rong bên đường cũng thế . Sau khi lấm la lấm lét , nhìn trước ngó sau rồi dừng lại mua một món quà kinh tế để vụng trộm nhấm nháp với bạn bè trong lớp, mấy cô bé, cậu bé hồi ấy cũng được người bán hàng  ưu đãi, gói ghém kỹ lưỡng, thêm thắt chi chút ...Lời trách móc nặng nề nhất khi có người thư sinh lầm lỗi là “ đi hược ( học ) mà như rứa (  thế ) . Những cử chỉ , những lời nói đơn sơ nhưng đầy tình đùm bọc biểu lộ nếp sống có văn hóa và tin tưởng mạnh mẽ vào văn hóa của một thời.

Nếu có những ngày nắng hạ thì Huế cũng có những tháng mưa dầm. Trừ những lúc bão lớn, đi học vào ngày mưa cũng là những niềm vui khó quên. Chúng tôi không đủ giàu để mua những chiếc áo ny-lông sang trọng bày bán trong thương xá Morin hay kiêu sa trong chiếc xe nhà ( xe kéo tư nhân ) lộng lẫy. Thường chúng tôi chỉ đội nón lá và mang tơi ( áo tơi làm bằng lá ). Nhiều tiền thì tơi đọt (aó tơi chằm bằng đọt lá kè) ấm áp và bền bỉ , ít tiền thì tơi cá  (chằm bằng lá kè già, xấu) vứt đi sau mỗi mùa mưa. Gió từ sông, nhất là giữa lúc qua cầu “sáu vài mười hai nhịp “, thổi vào tơi bần bật, lật nghiêng chiếc nón, làm sũng ướt mấy mái tóc thơ ngây. Chúng tôi đi sát vào nhau, cười đùa trong mưa gió, bước từng bước ngắn và nhanh trông như đàn chim cánh cụt, không tư lự, không biết gì đến giá lạnh miền địa cực .

Yêu mến sông Hương, tôi và bạn bè đã biết hết những bến tắm sạch sẽ nhất : bến Sõi ở phía cửa Ngang, cuối tuần đông như ngày hội ; bến biển Bãi Dâu với những mãnh ruộng dưa hấp dẫn ; bến nhà anh Tôn Thất Th. Phía Bầu Vá, bến nhà anh Bửu T. ở Vĩ Dạ, kín đáo, thoải mái  với những chiếc nhà mát bằng tranh nho nhỏ, cất trên mặt nước, dưới bóng những cây dừa sum sê. Bến Toà Khâm, phía trước trường Đại Học Sư Phạm ngày nay, vắng vẻ với đàn chim cộc ( cormoran ) từ biển đông xa xôi về trên mấy hàng cây dương liễu sát bờ sông, những chiếc phao cho thủy phi cơ neo ở giữa giòng, khêu gợi và lôi kéo hiếu kỳ nhưng gây cảm giác rờn rợn vì mấy ông Tây thực dân cú mèo và mấy chú lính khố xanh đứng gác với lưỡi lê tuốt trần sáng loáng .

Sông Hương là nguồn vui vô tận của chúng tôi suốt cả một thời tuổi trẻ. Lớn lên ít tuổi , sắp sửa trở thành những cậu tú, tập suy nghĩ về cuộc đời, chúng tôi vẫn bám víu lấy sông Hương, coi sông Hương là người bạn chính. Một số bạn bè cũng như riêng tôi bấy giờ đã tham gia vào hoạt động Hướng đạo . Toán Vạn Kiếp chúng tôi ( sau lúc anh Võ Thu Tịnh rời khỏi toán ) trong tráng đoàn Bạch Đằng đã có sáng kiến sắm một chiếc ghe nan để đi cắm trại, vì Thừa Thiên, ngang dọc đều có nhiều sông, lắm phá. Vào cuối tuần, hay những dịp lễ lớn , bảy, tám anh em trong  toán mang xắc và lều bỏ lên ghe  rồi cùng nhau chèo ngược giòng sông, gặp cảnh đẹp thì dựng lều sinh hoạt . Nhờ lối cắm trại đặc biệt đó chúng tôi đã nhận thức được nhiều vẻ đẹp của sông Hương mà có lẽ chỉ có một số ít người biết đến .

Sông Hương đẹp lúc chảy ngang thành phố Huế, nhưng càng ngược giòng sông lại càng đẹp. Giòng sông khoáng đạt, mặt nước phẳng lặng và trong xanh, hương nước đượm vị ngọt man mác không như ở các miền thành phố . Hai ven bờ xóm làng cô tịch, đồi cây nối tiếp đồi cây . Vào những lúc ráng chiều đổ xuống, giòng sông nhuốm đỏ, chuyển dần sang tím bầm rồi ẩn mình dưới màn sương mờ đục che lấp bến bờ .

Đứng trước cảnh tượng huyền bí lòng rỗng không nhưng hứng thú vô bờ. Như thực như mộng , “ ấy là hồ điệp hay là Trang sinh “, có lúc mình tự hỏi mình. Tiếng chuông chiều từ chùa Linh Mụ vẳng lại . Tưởng đến tiếng chuông Hàn sơn trong một bài thơ thật đẹp, thức tỉnh khách du ở bến Phong kiều và đem lại nguồn sống thâm sâu giữa cảnh tàn tạ “ nguyệt lạc “, “ ô đề”, “ giang phong “ ,” ngư hoả “, với “ sầu miên “.

Có những đêm trăng sáng giòng sông như một giải trắng bạc  giữa núi đồi. Có lẽ cảnh tượng này cũng như cảnh sương sáng ban mai đã khiến Cao Bá Quát ví sông Hương như lưỡi gươm dựng giữa trời xanh :

Trường giang nhất kiếm lập thiên thanh “

( Hiểu quá Hương Giang )

Nhưng chúng tôi đã phải từ giả giòng sông mến yêu để bước vào giòng sông thương đau của dân tộc. Trong xa vắng nhớ nhung, thương tiếc , chúng tôi đã chứng kiến bao cảnh đau lòng đó đây. Cũng nghe vọng về từ giòng sông cũ :

“ Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự

Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương “

Cả đất nước và riêng Huế đã đau khổ nhiều trước tham  vọng của thực dân tàn ác và ý đồ của một nhóm người muốn áp đặt lên dân tộc một chủ nghĩa độc tôn, xóa nhoà nếp sống mà Hương giang tiêu biểu về nhiều mặt .

Rồi hoà bình, một thứ hoà bình bấp bênh, đã đến . Tôi trở lại Huế giữa thời gian đó, tìm lại con sông của tuổi trẻ.

Phu Van Lau 1
Phu Văn Lâu nghe vọng câu hò năm nào vẫn còn đó ; còn đó điện Hòn Chén uy nghi trên đồi Ngọc Trản, chùa Linh Mụ trầm tư soi bóng tháp vào mặt nước trong xanh ... Nhưng chân dung của giòng sông đã thay đổi nhiều. Chiến tranh tàn bạo đã tạo nên nhiều điểm u sầu vì nghèo đói, hốt hoảng, vội vã, giành dật, cưỡng chế ...Phía tả ngạn, nơi Vườn ương thành phố, đã san sát những mái nhà tôn ngổn ngang, lấn chiếm vô tội vạ ra tận bờ sông. Bến Sõi ngày nào đã mất. Khu cỏ xanh tươi của sân banh thành phố đã trở thành một bộ phận của chợ Đông Ba với những túp lều chợ trời vá víu. Đối diện bên kia sông là giang cảng nhà binh ồn ào, rộn rịp, bụi mờ và xa hơn nữa, Văn thánh là nơi huấn luyện và trại giam nhà binh ...

Cuộc hoà bình bất đắc dĩ  rồi cũng đã chết yểu .Sông Hương một thời nữa lại “ cau mặt “ hứng nhận những “ tang thương “ tệ hại : tranh đấu, khủng bố, nịnh hót, âm mưu, đàn áp, di tản ... Cao điểm những tang thương, trước lúc sông Hương chuyển qua một chương lịch sử mới là Mậu Thân  1968 . Con  sông đã khóc, chiếc cầu sụp đổ, một giải khăn sô ... Nhưng Huế đã đứng lên và dù đổi thay trong căn bản sông Hương cũng là con sông thuở nào, tĩnh mịch, hiền hoà . Con đường dọc bờ sông từ Thượng Tứ đi ngược lên Phu Văn Lâu vẫn đan bóng phượng vào những ngày hè và những đêm trăng sáng . Hàng cây long não vẫn thoáng mùi hương dọc đường Lê Lợi ... Sau những giờ phút quay cuồng trong cuộc sống , đứng bên sông Hương, nhìn sóng nước lăn tan, con người vẫn có thể trở về với những lắng đọng , trầm tư nhẹ nhàng, thanh thoát .

Tiếp theo những biến cố đau thương, giờ phút lịch sử xoay chiều đã đến . Theo chân hằng trăm ngàn người, tôi vội vã ra đi, không một lời từ biệt , không kịp đoái nhìn . Và ra đi lần này , xa thật là xa ...

Sau hơn 20 năm xa cách, một quãng thời gian khá dài đủ nung nấu trí tưởng tượng và lòng nhung nhớ như một kẻ hành hương tràn ngập hạnh phúc được đi thăm đất thánh, tôi trở về viếng lại sông Hương .

Phu Văn Lâu, Ngọ môn, vọng thành , đền đài, lăng tẩm .... vẫn như xưa. Im lặng bên giòng sông lững lờ . Nhưng tôi đã không cảm thấy cái rung động mong chờ, chỉ thấy một niềm thương xót miên man, luyến tiếc , bàng hoàng . Có thể tôi đã già và xa rồi cái tuổi mộng mơ , duy có điều chắc chắn là có cái gì đó đã mất đi nơi cảnh vật từng hun đúc nên tâm hồn xứ Huế, tâm hồn  bè bạn tôi, tâm hồn những người tôi gắn bó, mến yêu , tâm và hồn tôi .

Tôi ghé thăm Ngọ môn, nơi triều đình nhà Nguyễn đã tiếp đón biết bao nhiêu sứ bộ ngoại quốc. Cũng là nơi chứng kiến ngày cuối của triều Nguyễn. Hôm đó có một cậu học trò nhìn đại diện Cộng sản tiếp nhận ấn kiếm từ tay Hoàng đế Bảo Đại để cai trị đất Việt, những ấn kiếm, mãi về sau họ mới tiết lộ , “ quá nặng...cố gắng lắm mới đứng được “ ( xem Tước ấn kiếm của Hoàng đế Bảo Đại – Hồi ký Trần Huy Liệu – KHXH –xuất bản 1992 ).

Lầu đã được UNESCO viện trợ để sửa sang , bên ngoài trông còn chút sáng sủa nhưng bên trong trống trải và bụi bặm. Không mấy khi được sân sóc , lau chùi.

Bước vào các cung điện trong hoàng thành . Phần lớn đã sụp đổ. “ Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo “ vì chiến tranh vừa qua và đặc biệt do biến cố Mậu Thân  68 . Điện Thái Hoà còn đứng vững, được trùng tu phần nào, nhưng trước sân và trong điện cũng một màu nghèo nàn , tiêu điều, mốc meo.  Quay gót trở ra bỗng nghe bên cạnh mấy người du khách hỏi nhau : “ Mày đã làm vua chưa ? – 20.000  mà thôi” (  2$ U.S ). Hai mươi ngàn đồng Bác Hồ để làm vua, để ngồi trên ngai vàng, dù trong giây lát , cũng thật là rẻ  !  Trước đây tôi nghe sách vở  và cán bộ Cộng sản thường lập luận : “ Đền đài của vua chúa là do bóc lột nhân dân mà có, vì thế chúng là của nhân dân , thuộc về lịch sử nhân dân ...” . Lý lẽ có vẻ yêu nước thương nòi, nhưng đã thuộc về lịch sử của nhân dân thì sao lại dùng để đùa cợt , để kinh doanh thấp kém đến thế ?  - Xin đừng bảo tôi bảo hoàng quá nhà vua . Khi đi thăm một di tích lịch sử người ta không chỉ thăm một ngôi nhà, một lâu đài, mà còn muốn thấy được cái tinh thần ngày xưa ẩn tàng đằng phía sau. “ Hòn đá cũng biết nói năng “ ( Les pierres parlent à ceux qui savent les entendre – Anatole France ) . Quên mất điều ấy, những đền đài miếu vũ, những di tích cũ, mới , sẽ mất hết giá trị lịch sử thiêng liêng , chỉ còn lại cái xác không hồn, còn thua hình ảnh trên  mấy tấm bưu thiếp .

Và đã mất thật, không riêng Đại nội mà phần lớn những nơi có ít nhiều giá trị lịch sử đã trở thành cơ sở kinh doanh , không phải để bảo trì hay trùng tu nhưng để kiếm thêm chút lợi . Lăng Minh Mạng, Tự Đức, Khải Định... nơi nào cũng xuống cấp , bụi bặm, mốc meo , chỉ còn là những cái cớ để câu khách du kiếm lợi. Điện Hòn Chén, một cơ sở tín ngưỡng cũng được vinh dự quốc doanh ! Trong điện, hôm tôi đến viếng, không thấy hương khói, chỉ thấy mấy anh cán bộ ngóng chờ khách thập phương, mỗi ngày một  hiếm , vì tiền vé vào cửa và sự kiểm soát chặt chẽ .

Quan niệm lệch lạc về đời sống xa hoa của vua chúa và lòng tham lợi trước mắt đã giúp cho nhiều quán ăn xa hoa mọc trên mặt sông, xóa mất vẻ đẹp thiên nhiên đặc thù của giòng nước . Trong những quán ăn xa hoa có quán “ Ngự thiện “ với cảnh lọng vàng và lính áo dấu ngày xưa hầu hạ. Trên sông còn có nhiều thuyền gọi là “ thuyền rồng “ gồm hai chiếc đò lớn kết lại, vẽ rồng, vẽ rắn. Đêm đêm những chiếc đò trang trí xập xệ ấy được đẩy ra giữa giòng cho các “ cung nữ “ , nghe nói là những sinh viên đã tốt nghiệp viện âm nhạc dân gian với một số tiền lương rất thấp như lời tiết lộ của một ca sĩ .

Trong xã hội chủ nghĩa, thật ngạc nhiên thấy cái chủ đề cuộc sống hoan lạc của vua chúa được khai thác trội lên trên tất cả các chủ đề khác. Mỉa mai thật hay là chủ nghĩa xã hội chẳng có gì để hấp dẫn ?.

Vẻ đẹp mơ mộng của giòng sông cũng bị lạm dụng gắt gao. Bên hữu ngạn sông từ Đập Đá đến Cầu Ga, dọc theo đường Lê Lợi, trong vườn của các công sở hay tư gia, hầu như không có nơi nào không có hàng ăn, quán nhạc. Phía vườn hoa sát bờ sông, từ trước bệnh viện đến Toà Đại biểu cũ, tối đến mọc đầy những quán cóc bán giải khát . Âm nhạc pha trộn đủ các điệu. Đèn màu sặc sỡ, căng bắt tứ tung , phá tan cái tĩnh mịch của giòng sông , cái tĩnh mịch quyến rũ, giúp con người nghỉ ngơi và trở về với cái tâm hồn trầm tĩnh của Huế.

Song huong xu hue 3R
Phía tả ngạn, từ cầu Tràng Tiền đổ lên Thượng Tứ, một tấm rào lưới sắt ngăn tầm mắt của người bộ hành với giòng nước mát. Đêm đến vườn hoa trở thành một khu vực tối tăm, bụi bặm, với những quán nước, những gánh chè rong trong ánh đèn lờ mờ, bí ẩn .

Con sông nói chung đã bị vùi dập quá nhiều , chưa kể người ta muốn chia giòng nước của sông bằng cách đào một con kênh về phía Nam. Công cuộc không thành, ngày nay con kênh khô cạn lan trải như một vết thương dài còn thấy rõ ở miền chùa Viên Thông .

Qua những lần tiếp xúc với bạn bè và thân thuộc tôi biết người Huế trong âm thầm vẫn trân trọng gìn giữ cái bản chất nhẹ nhàng, thanh cao duyên dáng ..., cái bản chất đã làm cho những ai từng biết Huế đều mến yêu Huế . Nhưng những người chịu trách nhiệm về Huế ngày nay hình như đã không chú ý gì đến cái giá trị cố hữu của Huế về mặt thiên nhiên cũng như về mặt văn hóa.  Về thiên nhiên, giòng sông Hương, ngoài việc bị tướt đoạt mất nhiều vẻ đẹp, đã trở thành một giòng sông ô nhiễm đến một mức độ phải báo động. Sông đã thành một con đường tải  đồ phế thải của Huế. Nước không còn trong xanh , chỉ còn một màu đục lờn vờn , lờm lợm . Chịu khó ngồi trên đò một thời gian , xuôi giòng về phía Gia Hội, vòng quanh Cồn Hến sẽ nhận thức ngay điều ấy. Trong những tặng phẩm cuộc sống mới đã tặng cho Huế , nổi bật nhất là những “ mini-hostel “.  Tự nó “ mini-hostel “ không phải là điều đáng trách, nó cũng giúp cho việc viếng thăm Huế được dễ dàng , nhưng nó đã phát triển quá mức như một lối chào mời ế ẩm và quanh các “ mini-hostel “ một lớp người làm phiền nhiễu đến du khách không ít . Cuộc sống ở đây không mấy tốn kém nhưng bỗng có lúc người ta bị đàn hạch , bị “ cứa “ hay bị lừa một cách vô lý . Cái ấn tượng không mấy tốt đẹp ấy đeo đẳng du khách thật lâu dài .

Tôi đã lan man quá nhiều và hình như đã quên đi một điểm chính là ai đã đặt tên con sông ấy là Hương giang , con sông mà hơn năm thế kỷ trước Nguyễn Trãi gọi là Kim giang . Thật đáng tiếc sử sách đã không ghi lại và trong dân gian cũng không có ai truyền tụng về con người ấy . Nhưng chắc đó là một người rất tài hoa , mơ mộng và rất nhân bản . Tên Hương giang không phải ngẫu nhiên mà có , tôi muốn nói không dựa vào một thể tính của giòng sông hay vin vào một địa danh. Dù có người nói , sỡ dĩ gọi là Hương giang  vì chảy qua đất Hương Trà . Nhưng Hương Giang và Hương Trà , danh xưng nào có trước, danh xưng nào sau ? Có người lại bảo sông mang tên là Hương giang vì hai bên có nhiều thạch xương bồ . Điều đó cũng có thể , nhưng từ thạch xương bồ đến Hương giang con đường cũng khá xa và cũng phải có một người đa cảm để nhận thấy Hương thoang thoảng trên không  , lan cả bầu trời , chạy dài theo giòng nước, thấm vào lòng người để gọi đó là Hương giang.

Lịch sử đã không ghi chép rõ ràng , thôi đành dựa vào huyền thoại . Tôi được đọc ở một nơi nào đó chuyện xưa kia người dân bên ven sông đã nấu trăm ngàn thứ hoa thơm khác nhau đổ vào giòng sông để thành ra sông thơm (Hương giang) .

Truyền thuyết thật nên thơ cũng như con người ở bên sông muốn giòng sông mình là giòng sông thơm . Nhưng truyền thuyết làm sao thật được ! Dù có đổ muôn vàn nước hoa vào sông, con sông cũng không thể thành Hương giang . Vậy xin hiểu theo nghĩa ẩn dụ “ chi lan chi thất “ . Tưởng chừng như cảm thấy  mùi lan chi ở những nơi có con người thanh thoát , phóng khoáng giữa khoảng trời đất hiền hoà mênh mang .

Sông Hương đẹp vì những đặc tính tự nhiên của nó , giòng nước trong xanh , lững lờ giữa núi đồi tĩnh mịch nhưng đẹp hẳn lên khi con người ở đó cảm nhiễm được  vẻ đẹp trời đất đã ban cho , bảo bọc lấy và tạo dựng nên một nền văn hóa tốt lành với những tâm hồn kỳ diệu .

Một điều lịch sử đã thừa nhận là trong hơn năm thế kỷ , từ khi đặt chân đến đất Châu Hóa , tổ tiên chúng ta đã dựa vào Hương giang tạo dựng nên một nền văn hóa có nhiều nét đặc thù làm giàu thêm nền văn hóa sông Hồng , cũng như làm cơ sở để phát triển văn hóa Cửu Long .

Tôi không phải là người bảo thủ đòi hỏi Huế phải hoàn toàn Huế ngày xưa , nhưng trong phát triển không thể không gìn giữ lấy cái cốt cách  , phong thái riêng biệt của Hương giang.

Xin hãy trân trọng giòng Hương giang !

Song huong xu hue 1

San Diego, Thu 96

Nguyễn Đăng Ngọc