Ai Cứu Tôi Thoát Tai Ách Giữa Sân Trường Trung Học Phan Châu Trinh
Trần Hữu Duận
Tôi ghi lại câu chuyện liên quan đến vào tháng 4 năm 1966, giữa sân trường Trung Học Phan Châu Trinh, cách đây đúng 43 năm nhằm hai lý do:
1/ Tưởng niệm và vinh danh một vị sĩ quan quân đội VNCH đối với nhà giáo: Cố Trung tá Lê Hằng Minh (sau nầy có lúc gọi là Lê Khắc Minh), Tiểu đoàn trưởng TĐ2 TQLC VNCH . (Theo quân sử : Trung tá Lê Hẳng Minh đã hy sinh tại mặt trận Phú Ổc Thừa Thiên Huế vào ngày 29 /6/1966).
2/ Nhớ đến một kỷ niệm khó quên đối với ngôi trường Phan Châu Trinh, nơi mà tôi đã sống và gắn bó hơn 15 năm trước 75, nhân dịp ngày hội “Kỷ Niệm Trường Xưa” mà hội Ái Hữu CHSPCT sẽ tổ chức vào ngày 5/7/2009, quy tụ toàn thể cựu HSPCT cư trú khắp mọi nơi trên thế giới về miền Nam California Hoa Kỳ.
Trong vụ biến động miền Trung liên quan đến Phật giáo năm 1966, ở Đà Nẵng có một số quân nhân bỏ quân ngũ, ly khai QĐVNCH, lấy cớ về bảo vệ chánh pháp, chùa chiền và một số tu sĩ Phật giáo “. Họ quy tụ dưới dưới một hình thức quân đoàn cách mạng, mượn danh hiệu quân đoàn TRẦN HƯNG ĐẠO do đại tá Đàm Quang Yêu chỉ huy, đối lập với chính quyền trung ương do QLVNCH lãnh đạo.
Vào tháng 4/1966, một cánh quân thuộc quân đoàn cách mạng nói trên kéo đến chiếm đóng trường Phan Châu Trinh, bố trí công sự, đặt vũ khí lấy cớ “ bảo vệ ngôi chùa Tân Ninh gần trường Phan Châu Trinh, ở đó một số nhà sư và một số Phật tử thuộc nhiều thành phần tụ họp kêu gọi tranh đấu chống chính quyền trung ương”. Tôi tuy là một Phật tử, nhưng tôi không tán thành vì đã chán các phe phái chính trị tranh giành ảnh hưởng tôn giáo và bị cọng sản lợi dụng lủng đoạn, đã dẫn đến nhiều biến cố làm suy yếu miền Nam Việt Nam tự do trong quá khứ, thí dụ vụ “ Thanh Bồ Đức Lợi” ở Đả Nẵng vào 8/1964, gây sự hiểu lầm tôn giáo và ly tán lòng người khó hàn gắn, nên tôi không tham dự vụ tranh đấu nầy .
Tôi lấy tư cách Tổng giám thị giữ trường Phan Châu Trinh, giải thích với họ: “ Trường học và bệnh viện là nơi cơ sở công cọng của xã hội , làm nơi cư trú và lánh nạn cho công chúng khi có biến cố như thiên tai, chiến nạn… Nay lực luợng lại lấy truờng học làm công sự bố trí vũ khỉ để bảo vệ Chùa, một tôn giáo sai nguyên tắc công lý."
Sau một hồi, họ nói chỉ mượn một số phòng học tầng trệt làm chỗ nghỉ lưng cho lính sau phiên gác các công sự ngoài đường. Họ thỏa thuận không mang vũ khí vào trường và không đụng đến các phòng: phòng giáo sư, phòng sân khấu, nhà kho, văn phòng, thư viện, phòng thí nghiệm, các phòng nữ công gia chánh. Tôi yêu cầu cho các gia đình trong khuôn viên trường đưa các em bé, đàn bà và người già ra ngoài khu vực để đề phòng , nhưng họ không chịu vì tránh dư luận và nại ra điều về “trường học và bệnh viện” là nơi lánh nạn.
Hằng ngày, trường học đóng cửa từ khi có biến động, nên tôi chỉ trông chừng văn phòng, kho, thư viện. Tôi thấy bên chùa có nhiều người lui tới, nấu nướng tiếp tế đồ ăn cho lực lượng bố trí công sự, xe cộ bố trí súng, đối đầu với quân đội của chính phủ trên các con đường dẫn đến chùa. Còn trong sân chùa và trên đường trước cổng chùa thì thiết lập mấy dàn hỏa thiêu, trên đó mấy vị sư ngồi tụng kinh, và loa phóng thanh tuyên bố nếu quân đội chính phủ tiến vào chùa đàn áp, thì mấy thầy sẽ châm lửa tự thiêu theo chánh pháp.
Vào một đêm cuối tháng tư 1966, khoảng 3 giờ sáng , tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ rất dữ dội từ đủ mọi phía. Nhiều tiếng đạn nổ trên không, tiếng đạn xé gió, phi cơ thả hỏa châu, khu trục bay sát, phóng hỏa tiễn ra biển gây nhiều tiếng nổ lớn.
Ở trong nhà, dân chúng có cảm tưởng có trận đánh lớn nên ai nấy đều xuống hầm núp, khóa cửa nhà (vì lúc bấy giờ Việt cọng hay pháo kích vào thành phố nên nhà nào cũng có đào hầm, chất bao cát đề phòng). Tôi cho vợ con xuống hầm để ngủ đêm, đóng cửa bên trong và trổ của thoát hiểm bên hông nhà. Tôi ở phòng ngoài để theo dõi biến chuyển, trời mùa hè nóng và cúp điện từ khi có nổ súng nên tôi chỉ mặc áo may ô và quẩn cụt.
Vào 5 giờ sáng, tiếng súng thưa dần. Tôi nghe tiếng rất nhiều lính trèo rào vào trường. Họ đập cửa nhà tôi, bảo mở cửa. Vừa mở cửa, tôi thấy một số binh sĩ mặc đồ TQLC , trang bị đầy đủ như đi hành quân. Họ nói với nhau không phải bằng tiếng Việt (sau nầy tôi mới biết số TQLC này là người Việt gốc Miên, Nùng họ xài tiếng Miên , Nùng để tạo vẻ xa lạ và giữ bí mật hành quân). Họ ra dấu tôi đưa tay lên đầu ( dấu hiệu đau hàng), rồi lôi tôi ra khỏi nhà và đẩy tôi lên hành lang đi mở cửa các phòng (cửa lớn và cửa sổ). TQLC nép sát minh ở ngoài sân.
Mỗi lần mở xong một phòng , thì một số nhảy vào khám xét và thu nhặt được một số ba lô, tấm trải chứ không có người và vũ khí. Khi tôi định lên lầu mở cửa các phòng trên lầu, thì có tiếng súng máy rít từ phía phòng thí nghiệm sang phía lầu rất nguy hiểm. Tôi không dám đi lên. Rồi tôi nghe phi cơ phóng rocket về phía phòng thí nghiệm và tiếng súng máy im luôn. (Về sau tôi mới rõ: lực lượng chống đối trong đêm đã di chuyển xe GMC trên đó gắn súng máy lớn, bắn lên trời, không cho phi cơ bay đến vùng chùa Tân Ninh.
Mảnh đạn trái rocket do phi cơ bắn hư đã làm cho ông bà Đinh Tránh, nhân viên giám thị ở gần đó bị thương, ra máu nhiều. May mắn có bộ phận y tá TQLC kịp thời băng bó.)
Tôi lên lầu mở cửa các phòng cho TQLC kiểm soát. Không có gì và họ đẩy tôi đi mở các phòng dãy trệt tiếp theo. Ba phòng kế phải phòng giáo sư họ cũng chỉ thu ba lô và tấm trải. Phòng giáo sư khoá cửa tôi không giữ chìa khoá, mà các lao công giữ nên không mở được.
Thấy cửa phòng số 9 bên cạnh trái phòng giáo sư có cánh cửa hé mở nên tôi vào, thì thầy hai người lính thuộc lực lượng ly khai có vé đang đau ốm, đứng dậy đưa hai tay lên đầu hàng.
Tôi đầy mạnh hai cánh cửa còn lại, định gọi TQLC tiếp nhận hai người lính ly khai nầy, thì một tiếng nổ lớn sát tưởng khoảng giữa hai lá cửa. Tôi tưởng có lựu đạn gài ở cửa vì tôi bị mảnh gỗ nhỏ xước vào chân chảy máu. May ở ngoài TQLC đang nép sát dưới hành lang nên không có ai bị thương.
Từ đó tôi thấy nguy hiểm quá, nên không chịu đi mở cửa tiếp, vì sợ chết oan, nhưng TQLC đối với tôi rất hung dữ. Họ xé áo may ô làm dây trói chấp cánh, cùng với hai người ly khai đau ốm kia, để ở cột cờ sau tượng cụ Phan Châu Trinh vừa mới đúc xong chưa kịp khánh thành.
Tôi lớn tiếng kêu oan nhưng họ không chú ý, tiến về các phòng kế sân khấu, lôi thêm nhiều ba lô và tấm trải. Tôi nói với theo: “ Phòng sân khấu, văn phòng đều khoá và chìa khoá do các lao công ở phía sau phòng thí nghiệm cất giữ. Nếu cần thì cho tôi xuống gặp gọi lên.” Tuy nhiên TQLC không về phía văn phòng.
Trong lúc tôi đang la lớn như vậy, thì một chiếc xe chở một số TQLC đến, và một Thiếu tá xuống xe, vào cửa hông bên cạnh. Ông ngắm tượng cụ Phan có vẻ thích thú, vị sĩ quan nầy cũng có bộ râu mép khá đẹp, khuôn mặt nhân hậu. Tôi liền lên tiếng: “ Tôi là nhà giáo, làm Tổng Giám Thị giữ trường nầy, nhà tôi ở góc trường và tôi không tham dư vào lực lượng ly khai. Xin Thiếu tá cho lệnh đừng phá cửa phòng sân khấu, nhà kho, văn phòng, phòng thí nghiệm vi các phòng đều khoá và chìa khoá do các lao công ở phía sau phòng thí nghiệm cất giữ. Xin Thiếu tá cho tôi về nhà với vợ và còn nhỏ.”
Vị Thiếu tá liền trả lời : “ Thầy là giáo sư TGT trường nầy, Trung uý trưởng toán hộ tống thầy xuống nhà và bảo vệ cho nhà thầy. Nếu giải tỏa còn lâu mà nhà thầy thiếu lương thực, thì hãy tiếp tế cho thầy và ngưng ngay việc lục soát các phòng mà trường đã khoá vi đó là tài sản của quốc gia. Tập trung mấy người lính ly khai đau ốm lại sẽ có xe đến chở đi.”
Nhờ thế tôi được Trung uý trung đội trưởng TQLC dẫn xuống nhà, thì thầy một vài TQLC đang lục soát phòng ngoài nhà tôi và đang đập cửa vào phòng trong. Vị Trung uý nầy liền ra lênh ngưng ngay lục soát và trách cứ những người lính nầy. Giờ phút đó tôi không biết trong nhà tôi có thiệt hại gì không. Tôi chỉ biết ghi nhận lòng nhân hậu và sự hiểu biết tôn trọng tình người và luật pháp quốc gia của các sĩ quan QLVNCH, nhất là vị Thiếu tá Chỉ huy TQLC nầy. Nếu không có sự can thiệp kịp thời một cách tình nghĩa đối với một nhà giáo , thì tôi cũng bị xếp vào hàng ngũ ly khai, chờ điều tra cũng phải bị giam cầm một thời gian. Nhà tôi và trường PCT sẽ bị thiệt hại không lường được trước qui luật thời chiến tranh.
Về sau, qua báo chí tôi được biết tên của vị Thiếu tá nhân hậu kia là Thiếu tá Lê Hằng Minh, TĐTTD TQLC VNCH . Vào 6/1966, ông ra Huế và chỉ huy đánh thắng vẻ vang ở Phú Lưu và được vinh thăng Trung tá tại cố đô Huế. Nhưng sau đó Trung tá đã hy sinh ngày 29/6/66 trong trận bị phục kích và phản phục kích khốc liệt trong chiến tranh VN ở cây số 32, cách Huế trên đường di chuyển ra Quảng Trị. Tôi đã ngậm ngùi thương tiếc và tưởng niệm vị sĩ quan nhân hậu, tôn trọng tình người và luật pháp quốc gia, nhất là đối với tôi, một nhà giáo không lớn tuổi hơn bao nhiêu. (Về sau nầy, tôi biết năm 66 vị Trung tá nầy đã 31 tuổi mà tôi chỉ mới 33 tuổi). Ông đã dùng tiếng “thầy“ đầy thân kính và tế nhi, để giải tỏa biết bao tâm lý trái ngược lúc bấy giờ, và giải thoát cho tôi khỏi tai vạ trong biến cố 1966 và trường PCT khỏi bị thiệt hại phần nào.
Năm 1972, vào mùa hè tôi tình nguyện đưa một số học sinh Đà Nẵng ra Quảng Trị ủy lạo chiến sĩ VNCH ở mặt trận Ái Tử, và cũng nhờ lời khuyên của một vị sĩ quan VNCH, cũng dùng chữ “thầy” rất chân tình, khuyên tôi bỏ bớt chương trình viếng trường Nguyễn Hoàng, vì tình hình chiến sự khẩn trương. Tôi đưa học sinh trở về Đà Nẵng trước mấy giờ, thoát khỏi cảnh “đại lộ kinh hoàng” Quảng Trị.
Thật là những kỷ niệm trường xưa khó quên.
Trần Hữu Duận
Bài do TDT gởi đến