Trung Học Phan Châu Trinh

User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active

 

TDTangvaBanbe

Bạn Cũ Trường Xưa 

Ngôi trường đó là trong anh nỗi nhớ

Là trong em cả tuổi trẻ thiên thần

Là của em mộng mơ và sách vở

Là của anh những giờ dạy thiên đường…

Trần Hoan Trinh

Và bạn bè mỗi người mỗi ngã

Ðứa ra đi đứa ở lại âm thầm

Phan Châu Trinh ơi ! Trường còn nhớ hay không?

Thầy cô cũ vẫn ra vào lối cổng!

1dR

Thái Doãn Ngà một thời vang bóng

Từ trắng tay xây dựng một cơ đồ

Có công nhiều trong việc điểm tô

Cho trường lớp thành khang trang đẹp đẽ

 PCT ThaidoanNga

Hồ Văn Thuyết tháng ngày đi lặng lẽ

Có như không, không có cũng như không

Giưã thế nhân mưu lợi cầu vinh

Vẫn ngơ ngẫn làm một người khách lạ

 PCT HovanThuyet

Lê Long Viên rượu nồng tình băng giá

Bỏ cây roi về đóng vở học trò

Nhìn cuộc đời với đôi mắt tỉnh say

Trong cô độc muốn buớc đi lần nưã

 PCT LelongVien

Trần Công Kiểm nằm dài sau cánh cưả  (2)

Khung trời riêng chỉ bốn bức tường xanh

Để rong rêu cứ bám rễ trong hồn

Thương vợ con tháng năm nhiều lận đận

 PCT TrancongKiem

Phan Thanh Gia-Lai má hồng bạc phận

Ít ngọt bùi lắm cay đắng trần gian

Người ra đi mang mất tuổi thanh xuân

Để lại đó tháng ngày thương nhớ nguyệt

 PCT PhanthanhGiaLai

Người hoạ sĩ tóc bềnh bồng như tuyết

Dáng phong sương vẫn vẻ Đỗ Toàn xưa

Cuộc lưu linh từ sớm đến tối mờ

Nghiêng hồ rượu hỏi ai cùng  túy lúy?

 (  )

Ôi giai nhân! Thiên thần hay ác quỷ

Ngô Thị Như Hà một thuở đẹp như tiên

Tình tay ba HÀ-LÃNG-HỔ đảo điên

 Khiến nhân thế tốn bao nhiêu giấy mực

 PCT NgothinhuHa

Tôn Thất Lan điệu slow buồn thổn thức (3)

Tiếng kèn đồng chới với gọi chiêm bao

Đêm hát tuồng nghe ngựa hí  quân reo

Tiếng sênh phách nhịp nhàng ru nỗi nhớ

 PCT TonthatLan

Trần Đình Quân bỏ quê hương xứ sở

Sóng trùng dương đưa đẩy bước phong trần

Đêm Ca-Li nhớ Bến Ngự vô cùng

Cho não nuột KHÚC TÌNH CA XỨ HUẾ

 PCT TrandinhQuan

Nguyễn Lương Hiền đã về lòng đất Mẹ

Để ngậm ngùi cho bao kẻ tri âm

Sự nghiệp chưa thành mộng ước chưa xong

Có thao thức dưới đáy mồ quạnh quẻ?

 ( )

Hồn thiêng về đâu ơi Trần Ngọc Quế  (4)

Rừng Lào-Kay đêm gió buốt mưa giăng!

Tiếng giảng Kiều thuở trước vẫn bâng khuâng

Dư nước mắt ai khóc người thiên cổ!

 PCT TranngocQue

Trần Nhất Hoan NỖI BUỒN NGÀY THÁNG CŨ (5)

Dáng  thư sinh  vẻ  nghệ sĩ tài hoa

Giai nhân xưa cá lặn chim sa

Bỡi ngang trái nên trở thành xa lạ   

 PCT TrannhattHoan

Nguyễn Trung Hối TRONG MÊ CUNG  huyền thoại (6)

Vẫn âm thầm làm một kẻ mộng du

Trần Huyền ơi! Xa lăn lắc mùa thu

Đêm phố nhỏ tìm vần thơ rơi rụng

 PCT NhuyentrungHoi

Đặng Thị Liệu dạy thời còn xuân mộng

Đến hôm nay vai trĩu nặng tuổi đời

Một chiều về bên trường cũ ngậm ngùi

Thấy tuổi trẻ của mình quên đâu đó

 PCT DangthiLieu

Đặng Minh Trai thầm yêu trộm nhớ

Một bóng hình cứ dấu mãi trong tim

Vượt trùng khơi trên thuyền nhỏ lênh đênh

Vừa đến bến đã thân vùi đất khách

 PCT DangminhTrai

Đỗ Viết Lê thâm trầm và sâu sắc

Lòng bao dung nhưng nóng nãy vô bờ

Thuở trẻ trai cũng tứ chiếng giang hồ

Lúc về già lại vô cùng ngoan đạo

 PCT DovietLe

Trần Hữu Duận cờ bay mấy dạo

Khi Dầu Giây, khi Phú Túc, khi Bình Dương

Ly trà sâm mát dạ khách qua đường (7)

Chiếc xe thố lăn tròn niềm cô độc

 PCT TranhuuDuan

Hà Công Bê chiều chiều trong quán cóc

Bạn dăm thằng ngồi kể chuyện tiếu lâm

Kiếp làm thầy như làm tớ khơng cơng

Đêm vẫn mộng thuở Bồi Đầm Già Ách!

 PCT HacongBe

Tạ Quốc Bảo chàng trai hiền đất Bắc

Xa quê hương từ thuở thiếu thời

Thêm một lần phải lưu lạc quê người

Lòng thao thức nhớ một trời cố xứ!

 PCT TaquocBao

Cao Huy Hóa người sông Hương núi Ngự

Vào Quảng Nam suýt…. quên mất lối về

Dẫu xa rồi thời trai trẻ đam mê

Vẫn lưu luyến với ngôi trường thuở trước

  (  )

Nguyễn Văn Kính mãi mê xuôi ngược

Sáng làm thầy tối bán chữ trăm phương

Ly cà phê đen đặc sánh nỗi buồn        

Kể bè bạn toàn những điều tưởng tượng

 PCT NguyenvanKinh

Lê Quang Mai ôm mối tình hoang tưởng

Mơ mộng hoài một bóng dáng giai nhân

Người thì xa mà khổ cực thì gần

Để nước mắt cứ ngậm ngùi lai láng

 PCT LequangMai

Nguyễn Ngọc Thanh đào hoa lãng mạn

Cả cuộc đời cứ dang dở vì yêu

Gian nan nhiều nên chẳng có bao nhiêu

Để trang trải những tháng ngày lưu lạc

 PCT NguyenngocThanh

Huỳnh Mai Trác như mây trời phiêu bạt

Một lần đi là biền biệt tăm hơi

Xem lớp, trường như ảo mộng xa xôi

Bỏ sách vở như thoát vòng nghiệp chướng

 PCT HuynhmaiTrac

Và Trần Thông! Lắm trầm tư suy tưởng

Tóc bạc phơ bỡi trăn trở chuyện đời

Tiếng giảng bài như… tình tự xa xôi

Đi đến lớp như đến nơi hò hẹn!

 PCT Tranthong

Phạm Ngọc Trác cách trùng trùng sông biển

Nhưng mỗi lần đứng ngắm những cơn mưa

Lại nhớ mưa buồn trên sân cũ trường xưa

Rồi thao thức thương học trò áo trắng!

  (  )

Trần Gia Phụng ngày rời xa Đà-Nẵng

Đêm cuối cùng thăm lại mái trường xưa

Sụp quỳ lạy tượng cụ Phan bốn lạy                     

Thấy trong lòng bỗng baõ tố đong đưa

 PCT TrangiaPhung

Nguyễn Văn Đáo lang thang sớm trưa

Đi thơ thẩn mọi con đường thành phố

Đứng ngơ ngẩn nhìn bờ sông lá đổ

Nhớ tháng ngày xa tít tắp mù sương

 PCT NguyenvanDao

Lê Khắc Ngọc Quỳnh hiền như dòng sông Hương

Cắt mái tóc mây một sớm đến trường

Thành người lớn để làm cô giáo

Có gói tóc về để nhớ thương?

 PCT LekhacngocQuynh

Giờ ra chơi đã thấy mặt Dương Ðức Phương

Cầm roi mây đi khắp trường doạ trẻ

Giơ rất cao nhưng cuối cùng đánh khẻ

Tướng dữ dằn nhưng lòng lại hiền khô

 PCT DuongducPhuong

Trương Văn Hậu mạnh như thần Apollo

Sức trai trẻ khi leo đèo đổ núi

Đi học tập vẫn tà tà bát phố

Ngồi cà phê như trong cuộc rong chơi

 PCT TRanvanHau

Gặp một lần  mà say đắm một đời!

Vĩnh Vinh ơi ! Đúng tình yêu của “mệ”!

Nhan sắc đó chắc phải là tuyệt thế

Nên lòng ai mới mãi mãi sắt son!

 PCT VinhVinh

Thương Nguyễn Tòng thân gà trống nuôi con

Đành ngậm miệng trách cuộc tình bội bạc

Giọng hát ấm thương mây trôi bèo giạt

Âm ba rung động đến không ngờ

 PCT NguyenTong

Chiều CaLi thả áo lụa làm thơ

Cô giáo trẻ Phan Mộng Hoàn bật khóc

Nhớ bục giảng nhớ bảng đen lớp học

Nhớ học trò như nhớ một trời yêu… 

 PCT PhanmongHoan

******
 

Thôi kỷ niệm cứ ngan ngát thương yêu

Anh một mình bâng khuâng trong trường vắng

 Chiều hôm nay bên hành lang vắng lặng

Nghe con ve buồn gọi nắng trên sân

Trần Hoan Trinh

 

BỊ CHÚ:

(1) Trường Trung học PHAN CHÂU TRINH ĐÀ NẴNG .                                 

(2) Thầy Kiểm nghỉ dạy đi thầu xây dựng. Một lần bị đất đổ tổn thương cột sống, nằm liệt một chỗ cho đến khi tạ thế.

(3) Có một thời thầy Lan đi theo đoàn hát bội Sông Hàn, đêm đêm ngồi bên cánh gà thổi kèn đệm nhạc.

(4) Thầy Quế đi học tập tại Yên báy, bị bệnh kiết và mất ở đó.

(5) Tên tập truyện của thầy Trần Ðình Hoàn.

(6) Tên tập truyện của thầy Nguyễn Trung Hối. Trần Huyền: biệt hiệu của thầy Hối khi làm thơ. Có một thời tôi và Hối hay lang thang tìm… vần thơ khắp phố phường ĐN.

(7) Thuở đi học tập về, thầy Duận đi xe thồ và bán nước trà sâm tại khu vực Giồng Trôm.

(8) Thứ tự các đoạn thơ chỉ là tình cờ, cho hợp vần, hợp điệu.                       

Làm bài này trong ngững giây phút nhớ bạn bè.             

Bài thơ tôi làm từ những thập niên 80, sau thêm bớt mấy đoạn, nên có nhiều đoạn không còn tính thời sự. Thí dụ: thuở ấy các thầy Trần Công Kiểm, Đoàn Văn Toàn, Trần Ðình Quân,… chưa tạ thế; thầy Tôn Thất Lan còn long đong,… Chỉ dám nhắc đến những bạn bè gần gũi đồng trang lứa. Bài thơ đã quá dài nên còn nhiều bạn thân chưa nhắc đến được. Đành tạ lỗi.

User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active

 

Lê Thị Ngọc Hồng

(Vợ của anh Huỳnh Bá Cần)

PCTA1

Nếu những người con gái Huế chúng tôi lòng cảm thấy tự hào và hạnh phúc khi được xuất thân từ một ngôi trường bề thế, danh tiếng đã qua 100 tuổi , Trường Nữ Trung Học Đồng Khánh thân yêu thì xuôi về Nam, vượt qua con đèo Hải Vân hùng vĩ để đến với đất Quang Nam - Đà Nẵng, những người con xứ Quảng anh hùng cũng có một sự tự hào không kém, khi đã từng theo học ở một ngôi trường mang tên nhà chí sĩ yêu nước, cụ Phan Châu Trinh.

Ngôi trường có bề dày lịch sử này là nơi đã đào tạo và sinh sản ra biết bao nhiêu người con ưu Tú, trải dài theo năm tháng, với những nhân tài thành đạt trên mọi lãnh vực từ khoa học, kinh tế, văn hoá, thương trường, y tế, ngoại giao, v.v…

Biết bao nhiêu thế hệ xuất thân từ ngôi trường này đã đóng góp nhiều nhân tài cho đất nước. Với những kiến thức đã được trau dồi theo những năm tháng học được ở trường, các anh chị đã thể hiện được thành công thực tế từ trong nước đến hải ngoại của ngày hôm nay.

Và một trong những thế hệ học sinh của ngôi trường danh tiếng đó, phải nói nhiều đến các anh chị học sinh của Khoá 1956-1963. Đó là một tập thể của sự gắn bó, yêu thương nhau đủ mọi thành phần giàu nghèo trong xã hội, nhưng các anh chị vẫn một lòng đoàn kết, sẻ chia những khó khăn trong những cuộc sống, những buồn vui của từng gia đình qua những sự kiện tang-ma, cưới hỏi, cũng không vắng mặt nhau. Ôi tình bạn thật tuyệt vời, đáng trân quý của những người học sinh năm cũ.

Những buổi họp mặt cuối năm, mà ở đó các anh chị cho dù tuổi đời không còn trẻ nữa, vẫn tìm về gặp nhau, hàn huyên tâm sự. Tất cả đều đã qua tuổi “ thất thập cổ lai hy” khi mà đã nhiều nếp nhăn, tóc đã nhiểu sợi bạc , sự nhanh nhẹn của một thời tuổi trẻ hầu như cũng mất đi, ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống thực tế của các anh chị hiện nay.

Tuy thế, sự nhiệt tình năng động, một lòng với bạn bè cũ luôn là nét đẹp hiện hữu bởi lúc nào cũng vậy, cứ có dịp gặp mặt nhau là sự sôi nổi của một thời tuổi trẻ, râm ran chuyện kể của những ngày xưa đi học, những kỷ niệm buồn vui về trường lớp, thầy cô , bạn hữu của một thời cắp sách, và cũng thật dí dỏm đến cười vui khi những tình huống bất ngờ tưởng chìm theo năm tháng, đến bây giờ họp mặt mới được người trong cuộc kể lại…

Ôi thật đầm ấm và thân thương, chan hoà tình bạn của các anh chị học trò Khoá 1956-1963 luôn là những ấn tượng tốt đẹp không quên của những buổi họp mặt cuối năm, mà ở đó từ những người con vẫn gắn bó với quê hương, đất nước cho đến những người bạn vì hoàn cảnh phải ly hương , vượt qua nửa vòng trái đất của hải ngoại vẫn luôn tìm về để gặp lại nhau, để hàn huyên tâm sự, để “mày, tau, mi, tớ” như những ngày xưa còn đi học bên nhau; và trong những buổi họp mặt bạn bè đó, họ vẫn không quên hùng hồn, sôi nổi hoà chung tiếng hát, qua bài “Phan Châu Trinh Hành Khúc”, cùng những bài hát của một thời vang bóng, để cảm nhận được lòng như trẻ lại của một thuở hoa niên.

Từ Định Quán, Đồng Nai tôi vẫn thường theo chồng (anh Huỳnh Bá Cần) về Sải Gòn để năm nào cũng vậy, gặp lại các anh chị là bạn cũ của nhau họp mặt, để thấy tình thân bạn cũ , mà ở đó theo thời gian qua mau, chúng tôi đã mất dần những khuôn mặt thân quen cũ, các anh đã đi vào cõi vĩnh hằng, để lại trong chúng tôi biết bao niềm thương, nỗi nhớ, của thời còn ở bên nhau. “Ôn cố tri tân” trải lòng với những kỷ niệm của một thời, tưởng chừng như xa lắm để cùng “ Tản mạn về một ngôi trường và những người học trò cũ “.

Trời cuối năm bao giờ cũng vậy, tiết trời se se lạnh, nhưng trong những giờ phút họp mặt bên nhau, sao vẫn thấy ấm áp thân thương bên những hoài niệm cũ của một thời tưởng như đã xa lắm, nhưng vẫn hiện hữu tồn tại ở đây, vì “ Còn gặp nhau thì hãy cứ vui…” (trích thơ của Tôn Nữ Hỷ Khương).

Định Quán, Đồng Nai, ngày 8/8/2017

Cựu Nữ Sinh Đồng Khánh xưa

Lê Thị Ngọc Hồng

User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active

ThayTNQue0029

Ngày mai là ngày gia đình cưới vợ cho anh . Sau một thời gian dài để cho anh tự chọn , cuối cùng gia đình đành phải áp đặt thôi. Thúc hối anh biết bao nhiêu lần , anh cứ ậm ừ rồi để vậy . Bây giờ anh cũng đã 45 tuổi rồi còn gì . Anh là con trai trưởng . Hôn lễ sẽ tiến hành tại Hội An , sau đó rước dâu về Đà Nẵng . Cô dâu là con một danh gia vọng tộc ở phố Cổ , hiện là giáo sư một trường trung học thuộc thị xả . Anh chưa hề thấy mặt , đúng hơn là không chịu xem mặt . Sao cũng được. Cả chiều hôm nay anh đến nhà tôi chơi, cứ lân la chuyện này chuyện nọ , nói cười huyên thiên , như muốn che dấu , quên đi nỗi buồn bực . Hai vợ chồng tôi mời anh ăn cơm , trái với thường lệ anh luôn luôn từ chối, chiều nay anh nhận lời liền . Tuy nhiên chỉ ăn lưng chén rồi bỏ đũa xuống mời mãi không được . Chờ vợ tôi thu dọn xong mâm bát , anh nắm tay tôi: 
- Đi lang thang chơi đi . Đi với moa một buổi nữa . Mai lấy vợ rồi , muốn đi chắc cũng chẳng được.
Tôi định từ chối , nhưng nhìn đôi mắt anh khẩn khoản , tôi không nỡ . Anh chở tôi trên chiếc lambretta cố hửu của anh , chiếc xe mà tôi đã thấy anh dùng khi tôi vừa mới đến đất Quảng này . Chạy quanh thành phố theo những con đường anh đã đèo tôi đi bao nhiêu lần , hồi tôi còn độc thân : Lê Lợi , lên Chợ Mới theo đường Hoàng Diệu, rẽ trái theo đường Trưng Nữ Vương, vòng xuống bờ sông Bạch Đằng, quẹo qua Lý Thường Kiệt chạy trở lên theo đường Độc Lập , chạy hai vòng quanh phố, anh đưa tôi trở lại bờ sông Bạch Đằng, dừng xe trước Quán Câu Lạc Bộ Quần Vợt ,bảo:
- Vào đây uống bia đi , moa bao . Uống một bữa cho say .
Thuở tôi mới tới trường, có mấy người bạn bấm nhỏ tôi :
- Ông chơi với Q. coi chừng đó . Tay ăn chơi nỗi tiếng nhất ĐN đó. Tay tứ đổ tường của đất Quảng Nam này đó .
Ban đầu tôi cũng dè chừng , nhưng sau một thời gian tôi thấy anh có gì đâu . Một chút bỡn cợt , một chút ba hoa , một chút phóng túng . Ai bảo anh đào hoa anh cũng cười hãnh diện . Ai bảo anh trai lơ anh cũng gật đầu không cải chính .Ngoài ra anh rất điềm đạm , chân tình và luôn hết lòng với bạn bè . Thuở tôi độc thân , ngày 2 buổi tôi phải đi ăn tiệm . Anh luôn luôn hẹn đèo tôi đi ăn , khi Thời Đại, khi Lâm Ký , khi Bạch Đằng….Ăn xong hai chúng tôi luôn lê la lang thang khắp phố phường Đà Nẵng, vào tiệm này một chút, vào tiệm kia một chút, hoặc ghé vào nhà sách SÔNG ĐÀ của anh Trần Ngọc Quán trên đường Độc Lập ngồi tán gẫu , đánh cờ tướng .
 
THAYQUE1
Thầy Tăng thầy Quế thầy Tòng
 
Tối thứ bảy , tối Chúa nhật anh rũ tôi đi xem ciné , khi Kinh Đô , khi Rex , khi Lido,…xong chạy xe bon bon chở tôi về , hẹn mai đến chở lại . Tính anh rất hiền từ , ai nói gì cũng cười ,nụ cười hơi móm một chút nhưng có duyên vô cùng . Một giọt bia anh cũng không uống được , một gịot cà phê cũng không . Anh chỉ uống nước khoáng quanh năm . Anh nguyên là một giáo viên tiểu học . Thuở trường PCT mới mở, các cô các thầy bằng cấp còn khiêm nhường lắm , phần lớn chỉ mới đậu Tú Tài I hoặc Tú Tài 2 , một số thầy cô vốn là nhân viên của các Ty , các Sở trong tỉnh được trường mời đến với tư cách dạy giờ . Thì trường nào lúc mới thành lập cũng vậy thôi , lần lần sau mới kiện toàn ban giảng huấn của mình. Cái lạ mà tôi nhận thấy là các vị thầy lúc đó lại giảng dạy rất thành công , rất dễ hiểu , được học sinh , được phụ huynh tin tưởng vô cùng . Sau này một số thầy tốt nghiệp Sư Phạm đến thay dạy hay bị học sinh phàn nàn , phản đối . Anh được trường phân công dạy Việt Văn lớp Đệ Tứ , lớp cuối cấp . Anh giảng bài rất hay , giảng Kiều cứ thao thao bất tuyệt , giảng Cung Oán ngâm khúc hết chỗ chê. Anh dạy với một chút hóm hỉnh khôi hài nữa , làm học sinh đôi khi như mê mẫn đi. Tôi nhớ một lần vừa dạy xong 2 giờ về Truyện KIỀU tại trường Nguyễn công Trứ , anh ghé chở tôi đi ăn trưa và khoe :
- Lớp Đệ Tứ của NCT có hai cô nữ sinh đẹp quá , toa thấy sẽ mê liền . Một em tên NGỌC , một em tên HƯƠNG . Vừa rồi moa thuyết giảng 2 câu :
 
Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến NGỌC ,tiếc gì đến HƯƠNG
 
Nói đến chữ NGỌC moa ngó em NGỌC, nói đến chữ HƯƠNG moa liếc em HƯƠNG, làm 2 em đỏ mặt cúi gầm xuống dễ thương quá .Tính anh như vây đó , bông lông , hóm hỉnh , khôi hài , vui tính .Vâng , đêm đó anh dẫn tôi vào quán bia . Anh gọi bia , 2 ly , nhưng chỉ mình tôi uống. Anh ngồi yên lặng nhìn ra mặt sông Hàn . Trời đầy trăng , nuớc sông Hàn gờn gợn sóng . Trăng trãi lấp lánh mặt sông , gió thoảng nhẹ nhẹ , cảnh vật bao la. Anh kể tôi nghe chuyện tình của anh : mối tình đầu với con gái con nhà giàu và mối tình hiện tại với M.H. , một cô học trò của tôi. Giọng anh ấm và tha thiết chi lạ , thoảng nhẹ như hơi . Mối tình hiện nay đã kéo dài được 5 năm rồi , có nhiều tình tiết rất thơ rất mộng , cả éo le, cả bi đát .Tôi ngồi yên lặng nghe , thông cảm .Tôi hỏi: yêu vậy sao không lấy . Anh bảo : gia đình cô chê anh không bằng cấp . Với lại chính cô cũng chê anh không bằng cấp nữa, anh bảo thêm : Yêu thì yêu nhưng còn mơ mộng kỹ sư bác sĩ ! Bẵng đi một lúc , tôi không nghe anh tâm sự tiếp. Nhìn qua , tôi thấy anh đang khóc . Hai hàng nước mắt chảy ròng ròng trên đôi má gầy với đôi lưỡng quyền nhô cao . Tôi hỏi : sao khóc ? Anh bảo : mai lấy vợ rồi , buồn quá ! Tôi nắm chặt tay anh, anh vin chặt lấy như người sắp chìm nắm được phao.
 
-Lấy vợ gì mà mình chẳng quen chẳng biết chẳng xúc động gì cả . Kiểu này chắc trước sau mình cũng bỏ đi thôi .Trời hơi se se lạnh, tôi rũ anh ra về .Anh chở tôi bon bon quanh quẩn một thời gian nữa mới thả tôi trước nhà . Nhìn đôi vai anh nghiêng hẳn một bên khi ngồi trên xe chạy xa , tôi thấy thương chi lạ . Đêm đó làm tặng anh bài thơ : LỜI CHIM KHI BỎ TRỜI MÂY. Tôi nhớ anh đã đăng bài thơ này vào tờ Báo Đảng của Anh.

Tôi bây giờ đứng lại một mình
Đưa đôi tay cho người yêu xiềng xích
Thôi bây giờ mình em đó em
Anh trồng chân làm loài thảo mộc
Thôi giả từ thành phố âu sầu
Những con đường đêm lang thang cúi mặt
Thôi giả từ những vì sao khuya
Rất cao rất buồn những lần về cô độc
Thôi giã từ bạn bè nhởn nhơ
Những môi hồng mắt đen những tóc bay kín mặt
Tình yêu cuối cùng cũng cho anh xin qua
Nắng cát nào để em anh cay mắt
Thôi giả từ bạn bè thân yêu
Tôi như con chim bỏ đàn lạc lỏng
Bọn chúng mình mấy đứa huênh hoang
Tháng ngày qua cũng đỡ buồn đỡ tủi
Thôi giả từ giả từ tất cả
Con chim này xin bỏ trời mây
Rượu cúc nào cho anh say đêm nay
Gục đầu cười rất to bỗng mắt đầy nước mắt……


Năm 1975, anh đi học tập cải tạo tại Yên Báy . Thiếu ăn thiếu uống không ai săn sóc , anh bị bệnh kiết và mất tại đó .
 

TRẦN HOAN TRINH
(Trích trong BUỒN VUI MỘT ĐỜI THẨY của TRẦN HOAN TRINH)

THAYQUE2

Thầy Trần Ngọc Quế ( đã qua đời tại Trại Tù Cọng Sản tại Yên Báy )

 

12 short stem roses hand tied bouquet

R3ec622b2a75c374115e846ca4ed1caa6 1

 

User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active

 

Ai Cứu Tôi Thoát Tai Ách Giữa Sân Trường Trung Học Phan Châu Trinh

Trần Hữu Duận

Xung phong

Tôi ghi lại câu chuyện liên quan đến vào tháng 4 năm 1966, giữa sân trường Trung Học Phan Châu Trinh, cách đây đúng 43 năm  nhằm hai lý do:

1/ Tưởng niệm và vinh danh một vị sĩ quan quân đội VNCH đối với nhà giáo: Cố Trung tá Lê Hằng Minh (sau nầy có lúc gọi là Lê Khắc Minh), Tiểu đoàn trưởng TĐ2 TQLC VNCH . (Theo quân sử : Trung tá Lê Hẳng Minh đã hy sinh tại mặt trận Phú Ổc Thừa Thiên Huế vào ngày 29 /6/1966).

2/ Nhớ đến một kỷ niệm khó quên đối với ngôi trường Phan Châu Trinh, nơi mà tôi đã sống và gắn bó hơn 15 năm trước 75, nhân dịp ngày hội “Kỷ Niệm Trường Xưa” mà hội  Ái Hữu CHSPCT sẽ tổ chức vào ngày 5/7/2009, quy tụ toàn thể cựu HSPCT cư trú khắp mọi nơi trên thế giới về miền Nam California Hoa Kỳ.

Trong vụ biến động miền Trung liên quan đến Phật giáo năm 1966, ở Đà Nẵng có một số quân nhân bỏ quân ngũ, ly khai QĐVNCH, lấy cớ về bảo vệ chánh pháp, chùa chiền và một số tu sĩ Phật  giáo “. Họ quy tụ dưới dưới một hình thức quân đoàn cách mạng, mượn danh hiệu quân đoàn TRẦN HƯNG ĐẠO do đại tá Đàm Quang Yêu chỉ huy, đối lập với chính quyền trung ương do QLVNCH lãnh đạo.

Vào tháng 4/1966, một cánh quân thuộc quân đoàn cách mạng nói trên  kéo đến chiếm đóng trường Phan Châu Trinh, bố trí công sự, đặt vũ khí lấy cớ “ bảo vệ ngôi chùa Tân Ninh gần trường Phan Châu Trinh, ở đó một số nhà sư và một số Phật tử thuộc nhiều thành phần tụ họp kêu gọi tranh đấu chống chính quyền trung ương”. Tôi tuy là một Phật tử, nhưng tôi không tán thành vì đã chán các phe phái chính trị tranh giành ảnh hưởng tôn giáo và bị cọng sản lợi dụng lủng đoạn, đã dẫn đến nhiều biến cố làm suy yếu miền Nam Việt Nam tự do trong quá khứ, thí dụ vụ “ Thanh Bồ Đức Lợi” ở Đả Nẵng  vào 8/1964, gây sự hiểu lầm tôn giáo và ly tán lòng người khó hàn gắn, nên tôi không tham dự vụ tranh đấu nầy .

Tôi lấy tư cách Tổng giám thị giữ trường Phan Châu Trinh, giải thích với họ: “ Trường học và bệnh viện là nơi cơ sở công cọng của xã hội , làm nơi  cư trú và lánh nạn  cho công chúng khi có biến cố như thiên tai, chiến nạn… Nay lực luợng lại lấy truờng học làm công sự bố trí vũ khỉ để bảo vệ Chùa, một tôn giáo sai nguyên tắc công lý."

Sau một hồi, họ nói chỉ mượn một số phòng học tầng trệt làm chỗ nghỉ lưng cho lính  sau phiên gác các công sự ngoài đường. Họ thỏa thuận không mang vũ khí vào trường và không đụng đến các phòng: phòng giáo sư, phòng sân khấu, nhà kho, văn phòng, thư viện, phòng thí nghiệm, các phòng nữ công gia chánh. Tôi yêu cầu cho các gia đình trong khuôn viên trường đưa các em bé, đàn bà và người già ra ngoài khu vực để đề phòng , nhưng họ không chịu vì tránh dư luận và nại ra điều về “trường học và bệnh viện” là nơi lánh nạn.

Hằng ngày, trường học đóng cửa từ khi có biến động, nên tôi chỉ trông chừng văn phòng, kho, thư viện. Tôi thấy bên chùa có nhiều người lui tới, nấu nướng tiếp tế đồ ăn cho lực lượng bố trí công sự, xe cộ bố trí súng, đối đầu với quân đội của chính phủ trên các con đường dẫn đến chùa. Còn trong sân chùa và trên đường trước cổng chùa thì thiết lập mấy dàn hỏa thiêu, trên đó mấy vị sư ngồi tụng kinh, và loa phóng thanh tuyên bố nếu quân đội chính phủ tiến vào chùa đàn áp, thì mấy thầy sẽ châm lửa tự thiêu theo chánh pháp.

Vào một đêm cuối tháng tư 1966, khoảng 3 giờ sáng , tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ rất dữ  dội từ đủ mọi phía. Nhiều tiếng đạn nổ trên không, tiếng đạn xé gió, phi cơ thả  hỏa châu, khu trục bay sát, phóng hỏa tiễn ra biển gây nhiều tiếng nổ lớn.

Ở trong nhà, dân chúng có cảm tưởng có trận đánh lớn nên ai nấy đều xuống hầm núp, khóa cửa nhà (vì lúc bấy  giờ  Việt cọng hay pháo kích vào thành phố nên nhà nào cũng có đào hầm, chất bao cát đề phòng). Tôi cho vợ con xuống hầm để ngủ đêm, đóng cửa bên trong và trổ của thoát hiểm bên hông nhà. Tôi ở phòng ngoài để theo dõi biến chuyển, trời mùa hè nóng và cúp điện từ khi có nổ súng nên tôi chỉ mặc áo may ô và quẩn cụt.

Vào 5 giờ sáng, tiếng súng thưa  dần. Tôi nghe  tiếng rất nhiều lính trèo rào vào trường. Họ đập cửa nhà tôi, bảo mở cửa. Vừa mở cửa, tôi thấy một số binh sĩ mặc đồ TQLC , trang bị đầy đủ như đi hành quân. Họ nói với nhau không phải bằng tiếng Việt (sau nầy tôi mới biết số TQLC này là người Việt gốc Miên, Nùng họ xài tiếng Miên , Nùng để tạo vẻ  xa lạ và giữ bí mật hành quân). Họ ra dấu tôi đưa tay lên đầu ( dấu hiệu đau hàng), rồi lôi tôi ra khỏi nhà và đẩy  tôi lên hành lang đi mở cửa các phòng (cửa lớn và cửa sổ). TQLC nép sát minh ở ngoài sân.

Mỗi lần mở xong một phòng , thì một số nhảy vào khám xét và thu nhặt được một số ba lô, tấm trải chứ không có người và vũ khí. Khi tôi định lên lầu mở cửa các phòng trên lầu, thì có tiếng súng máy rít từ phía phòng thí nghiệm sang phía lầu rất nguy hiểm. Tôi không dám đi lên. Rồi tôi nghe phi cơ phóng rocket về phía phòng thí nghiệm và tiếng súng máy im luôn. (Về sau tôi mới rõ: lực lượng chống đối trong đêm đã di chuyển xe GMC trên đó gắn súng máy lớn, bắn lên trời, không cho phi cơ bay đến  vùng chùa Tân Ninh. 

Mảnh  đạn trái rocket do phi cơ bắn hư đã làm cho ông bà Đinh Tránh, nhân viên giám thị ở gần đó bị thương, ra máu nhiều. May mắn có bộ phận y tá TQLC kịp thời băng bó.)

Tôi lên lầu mở cửa các phòng cho TQLC kiểm soát. Không có gì và họ đẩy tôi đi mở các phòng dãy trệt tiếp theo. Ba phòng kế phải phòng giáo sư họ cũng chỉ thu ba lô và tấm trải. Phòng giáo sư khoá cửa tôi không giữ chìa khoá, mà các lao công giữ nên không mở được.

Thấy cửa phòng số 9 bên cạnh trái phòng giáo sư có cánh cửa hé mở nên tôi vào, thì thầy hai người lính thuộc lực lượng ly khai có vé đang đau ốm, đứng dậy đưa hai tay lên đầu hàng.

Tôi đầy mạnh hai cánh cửa còn lại, định gọi TQLC tiếp nhận hai người lính ly khai nầy, thì một tiếng nổ lớn sát tưởng khoảng giữa hai lá cửa. Tôi tưởng có lựu đạn gài ở cửa vì tôi bị mảnh gỗ nhỏ xước vào chân chảy máu. May ở ngoài TQLC đang nép sát dưới hành lang nên không có ai bị thương. 

Từ đó tôi thấy nguy hiểm quá, nên không chịu đi mở cửa tiếp, vì sợ chết oan, nhưng TQLC đối với tôi rất hung dữ. Họ xé áo may ô làm dây trói chấp cánh, cùng với hai người ly khai đau ốm kia, để ở cột cờ sau tượng cụ Phan Châu Trinh vừa mới đúc xong chưa kịp khánh  thành.

Tôi lớn tiếng kêu oan nhưng họ không chú ý, tiến về các phòng kế sân khấu, lôi thêm nhiều  ba lô và tấm trải. Tôi nói với theo: “ Phòng sân khấu, văn phòng đều khoá và chìa khoá do các lao công ở phía sau phòng thí nghiệm cất giữ. Nếu cần thì cho tôi xuống gặp gọi lên.” Tuy nhiên TQLC không về phía văn phòng.

Trong lúc tôi đang la lớn như vậy, thì một chiếc xe chở một số TQLC đến, và một Thiếu tá xuống xe, vào cửa hông bên cạnh. Ông ngắm tượng cụ Phan có vẻ thích thú, vị sĩ quan nầy cũng có bộ râu mép khá đẹp, khuôn mặt nhân hậu. Tôi liền lên tiếng: “ Tôi là nhà giáo, làm Tổng Giám Thị giữ trường nầy, nhà tôi ở góc trường và tôi không tham dư vào lực lượng ly khai. Xin Thiếu tá cho lệnh đừng phá cửa  phòng sân khấu, nhà kho, văn phòng, phòng thí nghiệm vi các phòng đều khoá và chìa khoá do các lao công ở phía sau phòng thí nghiệm cất giữ. Xin Thiếu tá cho tôi về nhà với vợ và còn nhỏ.”

Vị Thiếu tá liền  trả lời : “ Thầy là giáo sư TGT trường nầy, Trung uý trưởng toán hộ tống thầy xuống nhà và bảo vệ cho nhà thầy. Nếu giải  tỏa còn lâu mà nhà thầy thiếu lương thực, thì hãy tiếp tế cho thầy và ngưng ngay việc lục soát các phòng mà trường đã khoá vi đó là tài sản của quốc gia. Tập trung mấy người lính ly khai đau ốm lại sẽ có xe đến chở đi.”

Nhờ thế tôi được Trung uý trung đội trưởng TQLC dẫn xuống nhà, thì thầy một vài TQLC đang lục soát phòng ngoài nhà tôi và đang đập cửa vào phòng trong. Vị Trung uý nầy liền ra lênh ngưng ngay lục soát và trách cứ những người lính nầy. Giờ phút đó tôi không biết trong nhà tôi có thiệt hại gì không. Tôi chỉ biết ghi nhận lòng nhân hậu và sự hiểu biết tôn trọng tình người và luật pháp quốc gia của các sĩ quan QLVNCH, nhất là vị Thiếu tá Chỉ huy TQLC nầy.  Nếu không có sự can  thiệp  kịp thời một cách tình nghĩa đối với một nhà giáo , thì tôi cũng bị xếp vào hàng ngũ ly khai, chờ điều tra cũng phải bị giam cầm một thời gian. Nhà tôi và trường PCT sẽ bị thiệt hại không lường được trước qui luật thời chiến tranh.

Trungtalehangminh01

Về sau, qua báo chí tôi được biết tên của vị Thiếu tá nhân hậu kia là Thiếu tá Lê Hằng Minh, TĐTTD TQLC VNCH . Vào 6/1966, ông ra Huế và chỉ huy đánh thắng vẻ vang ở Phú Lưu và được vinh thăng Trung tá tại cố đô Huế. Nhưng sau đó Trung tá đã hy sinh ngày 29/6/66 trong trận bị phục kích và phản phục kích khốc liệt trong chiến tranh VN ở cây số 32, cách Huế trên đường di chuyển ra Quảng Trị. Tôi đã ngậm ngùi thương tiếc và tưởng niệm vị sĩ quan nhân hậu, tôn trọng tình người và luật pháp quốc gia, nhất là đối với tôi, một nhà giáo không lớn tuổi hơn bao nhiêu. (Về sau nầy, tôi biết năm 66 vị Trung tá nầy đã 31 tuổi mà tôi chỉ mới 33 tuổi). Ông đã dùng tiếng “thầy“ đầy thân kính và tế nhi, để giải tỏa biết bao tâm lý trái ngược lúc bấy giờ, và giải thoát cho tôi khỏi tai vạ trong biến cố 1966 và trường PCT khỏi  bị thiệt hại phần nào.

Trungtalehangminh02

Năm 1972, vào mùa hè tôi tình nguyện đưa một số học sinh Đà Nẵng ra Quảng  Trị ủy lạo chiến sĩ VNCH ở mặt trận Ái Tử, và cũng nhờ lời khuyên của một vị sĩ quan VNCH, cũng dùng chữ “thầy” rất chân tình, khuyên tôi bỏ bớt chương trình viếng trường Nguyễn Hoàng, vì tình hình chiến sự khẩn trương. Tôi đưa học sinh trở về Đà Nẵng trước mấy giờ, thoát khỏi cảnh “đại lộ kinh hoàng” Quảng Trị.

Thật là những kỷ niệm trường xưa khó quên.

Trần Hữu Duận

Bài do TDT gởi đến

User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active


Có những hôm trời không có gió
Rưng rưng buồn trĩu nặng không gian
Giòng sông lặng hàng cây hờ hững
Biếng đón đưa lá biếc cành non

tumblr oct0y0NoVB1r26lv1o1 500

Buồn vời vợi theo về dĩ vãng
Vắng ngắt rồi nắng hạ mưa xuân
Sông Hồng sông Lam dâu xanh mấy giải
Buồm không lộng gió Bến Hải giòng Hương

Hàn giang Ngũ Hành cát trắng cây xanh
Còn đâu thấy những người bạn trẻ
Sưởi ấm hồn ta một thuở nào
Đàn chim trời vạn nẻo bay xa

Mới sáng nào tóc mướt như tơ
Nay sao vội nhuốm màu mây trắng
Hiện tại là vẩn vơ vơ vẩn
Ngày lại ngày ta giữa tha nhân

raw

Hỏi tương lai còn bao năm tháng
Để lại những gì sau buổi ra đi
Gió hỡi gió thổi lên phiêu lãng
Cho hồn ta phơi phới cỏ nội hoa ngàn

Ngày mai xác thân cuốn theo cát bụi
Nhớ đưa ta về bờ biển Trường Sơn
Giữa sông nước hiền hoà
Nơi một đời ta yêu mến

book pages waving wind outdoors nature animated gif

Bâng khuâng chờ cơn gió thổi...

Nguyễn Đăng Ngọc
San Diego, Xuân 2003