Trung Học Phan Châu Trinh

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

        BoDi 01

Cười muốn bỏ đi

Xác thân không có trói buộc gì

Muốn xa nhân thế tìm lên núi

Bỏ hết riêng mình chẳng có chi

Bỏ mặc hình hài với ước mơ

Bỏ cơn mưa với nắng bơ phờ

Bỏ em trong suốt thân ngà ngọc

Bỏ lại căn phòng nhện nhả tơ

Bỏ sợi mây buồn giữa bão giông

Bỏ hoang mang trước cửa tử thần

Bỏ đêm chăn gối đầy dị mộng

Bỏ tiếng chim gù dưới bóng râm

Bỏ suối bỏ sông bỏ chỗ nằm

Bỏ niềm hi vọng với băn khoăn

Bỏ con ong nhỏ bay tìm mật

Bỏ cả hoang vu lẫn nhọc nhằn

Bỏ những hư danh lóe một thời

Bỏ luôn áo mũ lẫn cân đai

Bỏ quên quá khứ và mai mốt

Bỏ cả niềm đau lẫn tiếng cười

Bỏ hết đêm về đứng trước gương

Bỗng xót thương thân thể trần truồng

Vẫn thấy sân si còn trong máu

Lại thấy yêu cuộc sống như thường

Tặng ĐTN

Duy Ngọc

( ĐS kỷ niệm  55 năm thành lập Trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng, Hải ngoại  2007 )

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

 NhoLaiMotThoi PCT 01

MỘT  THỜI  TRUNG  HỌC ...

Có những đêm thậy khuya, nơi quê người xa lắc, tôi lại giật mình tỉnh giấc, vì những kỷ niệm xa xưa, bỗng vụt tràn về trong ký ức, như một đoạn phim, không đoạn đầu hay đoạn cuối, nhưng cứ quay mãi...quay đều...trong tâm trí tôi, như một điệu ca dao trầm buồn, giữa những buổi trưa Hè êm ả...

Tôi đã đi nhiều nơi. Tôi đã theo học với nhiều Thầy Cô ở nhiều trường lớp. Tôi đã gặp biết bao nhiêu bạn bè, trong suốt mấy mươi năm qua...Vậy mà không hiểu tại sao, hình ảnh các Thầy Cô và những khuôn mặt của bạn bè thời thơ ấu, cùng học chung một lớp , trường Trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng, dù đã hơn 30 năm qua rồi, vẫn cứ hiện ra rõ nét trong tôi, cứ như là mới gặp nhau ngày hôm qua vậy ...

Trung học đệ I cấp- Đệ Thất Ba ( 6/3 ) nk 1969-1970

Nhớ mới ngày nào, sau khi thi đậu Đệ thất trường Phan Châu Trinh, tôi bước vào lớp Đệ thất 3 ( 6/3) ban Pháp văn , niên khóa 1969-1970, với bao hồi hộp, ngỡ ngàng...Ngồi trong lớp học, buổi đầu tiên, nghe thầy Giám thị Dương Đức Phương nói rằng : “ Các em hãy nhìn sang bên kia đường, nơi đó là trường Nam Tiểu học. Còn giờ đây, các em đang ở bên này đường, trong trường Phan Châu Trinh, các em đã là học sinh trung học, có nghĩa là các em đã lớn. Cho nên, các em hãy cố gắng học tập thật giỏi để khỏi phụ lòng cha mẹ, thầy cô ...” . Lời nói của thầy Phương, kể từ buổi tựu trường năm ấy, đã mãi mãi ở trong tâm hồn tôi...

PCT NienKhoa 1974 5582R
1 / Lớp 10B1 PCT, niên khoá 1973-74

 PCT NienKhoa 1974 5584R

2/ Cô Phan Mộng Hoàn và học sinh 8B3 , 15 năm sau gặp lại năm 1986

( sau lưng Cô MH là Sơn Lai,Sơn Lồi,Ngọc Toàn…

cạnh Cô là Ng.Thế Dung, Trần Công Đức, Lê Công Tâm )

Liên lớp đệ thất niên khóa 1969-1970 có ba lớp Pháp văn:  6/1, 6/2, 6/3. Năm đó, đậu thủ khoa kỳ thi tuyển vào Đệ thất là Lý An Thái, học ở  6/1. Còn anh Lý An Thái là Lý An Thành thì học ở lớp  6/3. Cô giáo chủ nhiệm lớp 6/3 là cô Hoàng thị Hạnh, dạy môn Pháp văn. Còn Trưởng lớp là Lương Văn Hàng và Phó lớp là Mai Văn Anh.  Sĩ số của lớp chừng 50 học sinh. Họ và tên trong sổ điểm danh là Hồ Văn Ái và cuối cùng là Nguyễn Thanh Tuấn. Trong lớp có nhiều tên bị trùng nhau :

Hai tên Quang là Lê Thanh Quang và Hồ Dương Quang.

Hai tên Hoà là Lê Văn Hoà và Trần Khánh Hoà.

Hai tên Thành là Lý An Thành và Trần Xuân Thành.

Hai tên Tín là Bùi Xuân Tín và Ngô Chung Tín.

Có bốn tên Hùng : Nguyễn Hùng , Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Thanh Hùng, và Lê Quang Hùng.

Và bốn tên Sơn  là : Cao Thành Sơn, Đỗ Xuân Sơn, Nguyễn Thanh Sơn và Phan Thanh Sơn.

Vì thế cho nên, các “ tên đệm “ ( nick name ) được ra đời trong lớp, để rồi từ đó trở thành “ bất tử “.

Lê Văn Hoà được gọi là Hoà Liberté ( hay Hoà Tự Do ), trong khi Trần Khánh Hoà thì được gọi là Hoà Hí.

Lê Thanh Quang vẫn gọi là Quang vì Hồ Dương Quang đã được gọi là Quang Gà .

Bốn đứa tên Hùng thì được gọi là : Hùng Tề Thiên ( Nguyễn Hùng ), Hùng Hai tề Thiên ( Nguyễn Văn Hùng ),Hùng Nheo ( Lê Quang Hùng ), Hùng Photo ( Nguyễn Thanh Hùng ).

Bốn đứa tên Sơn thì được gọi là : Sơn Lồi hay Sơn Cao ( Cao Thành Sơn ), Sơn Lác ( Đỗ Xuân Sơn  ), Sơn Lông (  Nguyễn Thanh Sơn ), Sơn Lai ( Phan Thanh Sơn ).

Trần Xuân Thành được gọi là Thành Bấu, còn Lý An Thành thì vẫn được gọi là ...Lý An Thành !

Hai đứa tên Tín được gọi là Tín Dê  ( Bùi Xuân Tín ), và Tín Tàu  ( Ngô Chung Tín ). Vấn đề đặt tên đệm “ nick name “ không phải chỉ để giải quyết chuyện trùng tên trong lớp, mà ngay cả những đứa có tên không bị trùng vẫn được “ưu ái “ đặt tên đệm như thường...Như vậy mới là “ công bình “.

Trương Công Bình thì gọi là Trương Bù Lật

Nguyễn Văn Tại được gọi là Tại Đô La hay Tại Hynos

Nguyễn Đức Thông, gọi là Thông Lùn

Hoàng Cung Nam, gọi là Hoàng Cu-Roa

Nguyễn Thế Dung , gọi là Dung Ròm

Lê Thanh Minh, gọi là Minh Tam Tạng

Lê Tự Đức , gọi là Vua Tự Đức hay “ Anh được thì cho Em xin ...lại ! “

Mai Khanh Định, gọi là Mai Hắc Đế, hay còn gọi là Chúa Hào hoa

Trần Văn thân, gọi là Thân Mập

Lê Công Tâm, gọi là Tâm Hề

Thân Văn Tây, gọi là Tây Đen

Lê Tượng, gọi là Hoài Lãng Du

Nguyễn Văn Hạnh, gọi là “ Thương Hoài Ngàn Năm “

Nguyễn Trọng Phước cũng được gọi là Phước Lùn

Lương Văn Hàng được gọi là Hàng Móm

Đỗ Kỳ được gọi là Ky Hô hay “ Đĩ cồ” ( đọc lái tên Đỗ Kỳ ! )

Lê Văn Thắng, gọi là Thắng Lép .

Đặc biệt là nick name của “ Chú Khá “ tên trong sổ điểm danh lớp 6/3 là Nguyễn Văn Khá, nhưng vì là chú tiểu ( tu sĩ Phật Giáo ) cho nên chúng tôi gọi là Chú Khá . Chú Khá đi học bận áo cà sa, và để một chùm tóc trên đầu. Chú Khá có lẽ là tu sĩ Phật giáo “ duy nhất “ học ở trường Phan Châu Trinh, liên lớp 6, niên khóa 1969-1970.

Như vậy, lớp tôi đã “ tự nghĩ rằng “ mình có đủ tiêu chuẩn để xứng đáng đạt danh hiệu là lớp có nhiều tên đệm ( nick name ) nhất trường , và không chừng biết đâu là nhất luôn cả...nước !

Thầy Cô...

“ Nhất Tự Vi Sư, Bán Tự Vi Sư “, hay là “ Không Thầy đố mầy làm nên “ là nền tảng đạo lý dạy tôi nên người. Xin trân trọng tri ân công ơn giáo dục của các Thầy Cô đã tận tụy hướng dẫn, dạy dỗ và trang bị cho tôi những kiến thức căn bản , trong suốt những năm dài cắp sách đến trường, để sau này, làm hành trang bước vào đời ...Có những Thầy Cô giờ đây đã yên giấc nghìn thu. Xin thắp nén hương lòng, cầu nguyện cho vong linh các thầy Trương Đình Đức ( dạy Toán ), thầy Nguyễn Ngọc Định ( dạy Công Dân ) , thầy Lý Châu  ( dạy Pháp Văn ) được yên nghỉ nơi cõi vĩnh hằng.

Nhắc đến Thầy Cô, có biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn. Cho đến bây giờ, cho dù không có “ bình bầu “ một cách chính thức, nhưng mỗi lần họp mặt, chúng tôi dường như đồng ý với nhau rằng :

- “ Nghiêm khắc “ nhất vẫn là thầy Lê Văn Tâm, dạy Toán lớp 6 và 7 .

- “ Hiền “ nhất là Cô Nộn Ngân  dạy Việt Văn lớp 6 .

- “ Thương “ học trò nhất là thầy Nguyễn Hương, dạy Việt Văn và giáo sư chủ nhiệm năm lớp 7 .

- Tổ chức “ Thi đố vui để học “ và cho “ Thuyết trình ‘ nhiều nhất là thầy Đặng Ngọc Thừa, dạy Việt Văn lớp 9. Ngoài ra , thầy Thừa còn là người thầy “ thân thương và gần gủi “ nhất đối với lớp, mặc dù thầy không phải là thầy chủ nhiệm, suốt hơn 30 năm qua và cho đến bây giờ...

- Cho hát trong lớp nhiều nhất là là cô Võ Thị Hồng Diệp, dạy môn Vẽ từ lớp 6  đến lớp 8 .

- Cô giáo cả lớp “sợ “ nhất là cô Hoàng Thị Hạnh, dạy Phán Văn lớp 6 .

-  Dạy về thi ca Xuân Diệu “ đầu tiên “ và “ hay “ nhất , với bài “ Giao Lại Tuổi Thơ “ , là cô Phan Mộng Hoàn, dạy Việt Văn lớp 8.

- Cô giáo không bao giờ “ la “ học sinh , mà cả lớp cảm thấy học và hiểu bài” dễ dàng- thoải mái “ nhất là cô Nguyễn Đỗ Thu dạy Vạn Vật lớp 9. Và sau này cô Thu tiếp tục dạy Vạn Vật các lớp 10B1, 11B1 .

- Viết chữ “ đẹp” nhất là thầy Nguyễn Tòng, dạy Lý Hoá lớp 6 .

- Cô giáo “ hát hay “ nhất là cô Quỳng, dạy Sử Địa lớp 7.

- Đặc biệt nhất là thầy Trương Đình Đức  ( dạy Toán ) và cô Tôn Nữ Lang  ( dạy Sử Địa ) là đôi vợ chồng duy nhất cùng dạy lớp  8/3...

Và có lẽ còn biết bao nhiêu câu chuyện thương nhớ về thầy cô mà trong tâm trí của các bạn học ,của tôi từ lớp 6/3 đến  9/3 còn in đậm nét .

Bạn hữu 6/3 – ngày xưa thân ái...

Đã nhiều lần tôi ngồi một mình để tưởng tượng lại những gương mặt thân quen trong lớp 6/3 ngày cũ. Dường như “ định mệnh “ đã sắp xếp cho chúng tôi có cái “ duyên “ được ngồi học chung với nhau, từ lớp 6/3 , và trong suốt bốn năm trời của thời đệ nhất cấp. So với các lớp 6 khác cùng niên khóa, lớp 6/3 có lẽ là “ cá biệt “ nhất. Theo nhận xét của riêng tôi, lớp  6/3 có nhiều điểm đặc biệt rất “ ấn tượng “- không những “ khác thường “ mà còn rất “ phong phú, đa dạng “- mà mỗi lần nhớ lại, tôi thấy lòng mình ngập tràn những niềm vui thú.

Ai đó đã nói : “ Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn “. Vậy thì “ tâm hồn “ của lớp 6/3 phải là  vô cùng “ bao la, bát ngát “. Bởi vì đã có mắt lồi  ( Sơn Lồi ), lại có thêm mắt hí ( Hoà Hí ), rồi có cả mắt nheo ( Hùng Nheo ). Vậy chỉ còn thiếu “ mắt lé “ nữa thôi là lớp tôi có đủ “ bộ tứ linh : Lé-Lồi-Nheo-Hí “.

Tính chất “ đối xứng trong Toán học cũng đã được lớp 6/3 thực hiện vô cùng “ triệt để “ và “ xuất sắc “. Xin nêu vài “ phân tích “ như sau :

- Bàn về “chiều cao “ : đã có Sơn Cao thì phải có Thông Lùn hay Phước Lùn .

- Bàn về “ răng, hàm, miệng “: đã có Hàng Móm thì phải có Kỳ Hô.

- Bàn về  “sức nặng cơ thể “ :  đã có Dung Ròm thì phải có Thân Mập .

- Bàn về “ làn da “ : đã có Sơn Lác thì phải có Sơn Lông . Còn về “ màu da “  đã có da đen ( Tây Đen ) thì phải có da trắng ( Sơn Lai ).

Chưa kể đến việc so sánh về hình dạng : Đã có Lồi ( Sơn Lồi ) thì phải có Lép (  Lê Văn Thắng, Thắng Lép ).

Ngoài ra còn có những đặc điểm khác làm cho lớp càng “ hết chỗ chê “ ,là :

Trong lớp đã có Trời ( Trần Thiên ) còn có Vua ( Lê Tự Đức, biệt danh Vua Tự Đức ), rồi lại có thêm Mai Hắc Đế ( Mai Khanh Định- Chúa Hào Hoa ) nữa chớ.

Có cả Thông- Minh ( Nguyễn Đức Thông và Lê Thanh Minh ). Cọng thêm Phúc- Đức  ( Trần Đại Phúc- Trần Công Đức ). Rồi lại có Công Bình, Công Tâm, rồi cả Công Khai và Công Đức...Đã có Tư  ( Ngô Tư ), mà lại còn thêm Bốn ( Trần Bốn ) nữa, coi như là “ double features “ !. Đã có Rồng ( Trương Duy Long ), lại có Voi ( Lê Tượng ), rồi lại có thêm Khỉ ( Trần Văn Thân ), rồi còn thêm Heo ( Trnh Văn Thanh – Thanh Heo ) , rồi cả Gà ( Hồ Dương Quang - Quang Gà ) , và rồi lại có thêm Dê ( Bùi Xuân Tín – Tín Dê ) nữa, thì ai mà “ chịu đời cho thấu “ !!!

Đã có Chiến ( Nguyễn Khoa Chiến ) rồi lại Thắng ( Lê Văn Thắng ), rồi có Thành ( Lý An Thành và Trần Xuân Thành ) , và lại có thêm Công ( Nguyễn Văn Công ) để hợp thành bộ tứ : Chiến- Thắng-Thành- Công. Vậy thử hỏi làm sao mà lớp 6/3 “ bị thua “ cho được ?

Có được Hoà – Bình ( Trần Khánh Hoà và Trương Công Bình ), rồi có luôn cả Hạnh - Phúc ( Nguyễn Văn Hạnh và Trần Đại Phúc ) ...thì “ vui vẻ “ quá rồi còn gì ???

Ngoaì ra, còn có câu “ ca dao để đời “ của lớp :

“ Lớp tôi có bốn thằng Sơn

Sơn Lông, Sơn Lác, Sơn Lồi, Sơn Lai”

mà mỗi lần nhắc đến, đứa nào trong lớp cũng thuộc nằm lòng... Như vậy , với tất cả mọi đặc tính cá biệt vô cùng “ đặc biệt” kể trên , thì lớp 6/3 nếu không được nhắc đến , thi quả là hơi bị “ lãng phí “ ???

Những Kỷ Niệm Không Bao Giờ Quên...

Năm học  lớp 6/3 có một lần tôi bị cô Nguyên , dạy Công dân, đuổi ra khỏi lớp vì tội nói chuyện và làm mất trật tự trong lớp. Lần đầu tiên bị đuổi học, bị phạt đứng ngoài cửa lớp, tôi bật khóc vì lo sợ và hối hận. Bấy giờ trong tâm hồn của cậu bé học trò lớp 6, tôi cảm nhận được nỗi bơ vơ,lạc loài, đầy lo âu vì bị đuổi học, và niềm ân hận trong lòng cứ mãi ray rức không nguôi. Ba mươi phút bị phạt, dài tưởng chừng như bất tận...Sân trường im vắng, đến độ có thể nghe được tiếng lá kiền kiền rơi xào xạc...Đến cuối giờ, cô cho phép tôi được vào lớp học, sau khi tôi hứa với cô là sẽ không bao giờ làm mất trật tự trong lớp nữa. Từ đó, tôi không dám nói chuyện trong giờ học, vì sợ bị đuổi học. Đã bao năm rồi, sự kiện “ lịch sử “ này vẫn sống mãi trong tôi, có lẽ vì dấu ấn của sự trưởng thành về hạnh kiểm cá nhân.

Tôi vẫn nhớ,đề thi ,đệ nhất lục cá nguyệt, môn Việt văn lớp 6 của cô Nộn Ngân : “ Em hãy tả cây mai ngày Tết ở nhà em “. Tôi đã viết phần kết luận (còn nhớ loáng thoáng ) như sau : “Sau mười ngày Tết, những cánh hoa mai đã tàn, rụng đầy dưới chậu cây. Em bỗng thấy buồn vì cây hoa mai của nhà em, giờ đây, chỉ còn những chiếc lá màu xanh trên cành, một mình trơ trụi “.   Kỳ thi đệ nhất cá nguyệt lần ấy, tôi được cô cho 14/20 , đứng nhất lớp và làm “ chemise “ cho lớp.

Tôi cũng không sao quên được” chuyện cười bất tử “ trong giờ học Nhạc, khi thầy Hoàng Bích Sơn quyết định “ tặng “ cho bạn Sơn Lông 2 con zéro to tướng chỉ vì Sơn Lông xin phép thầy “ tha “ cho thằng bạn ngồi kế bên với lời “ năn nỉ “ chân thành thắm thiết : “ Dạ, em xin thầy tha cho nó,...tội nghiệp “. Thầy đã  “vui vẻ” nhận lời : “ Được ! thầy sẽ tha cho nó, vì em “ đã lãnh “  hai con zéro thế cho nó rồi ! “ .Sau giờ Nhạc hôm ấy, Sơn Lông và thằng bạn “ hiền “ ngồi kế bên, đã có một trận chiến “long trời lở đất “...

Còn nhớ biết bao chuyện “ nghịch ngợm “ buồn vui của tuổi học trò trong các giờ Pháp Văn với thầy Lý Châu và thầy Ngô Sĩ Cầu. Các thầy bắt học thuộc lòng ( récitation ) và nhiều “ chiến hữu “ trong lớp đã phải  đối phó “ bằng cách viết trên bảng, nguyên bài, bằng bút chì đen, rồi khi bị kêu tên lên bảng, thì tìm cách “ vận dụng “ thị lực tối đa để đọc các dòng chữ viết nhỏ xíu trên bảng. Hay phải năn nỉ các bạn ngồi bàn đầu “ nhắc tuồng “ hoặc cầm sách đưa lên để “ cứu bồ “. Vì thế, chuyện đọc đoạn được, đoạn mất, đầu đuôi lộn xộn, là chuyện thường, và mỗi lần như thế là cả lớp lại có dịp để cười nghiêng ngả...

Đáng để đời nhất vẫn là câu chuyện “ muôn thuở “ của Lê Tự Đức, năm lớp 8 , khi bị kêu lên dò bài, môn Việt Văn của Cô Mộng Hoàn, bài thơ lục bát Tình Quê, đã đọc một cách “ rất ngọt “ như sau :

Hôm qua tát nước đầu đình

Để quên chiếc áo trên cành hoa sen

Em được thì cho Anh xin ...”lại “

Hay là Em để làm tin trong nhà...

Dù rằng Cô Mộng Hoàn đã bắt Lê Tự Đức đọc lại đoạn thơ trên nhiều lần, nhưng lần nào Đức cũng đọc một cách “ tỉnh bơ “: “ Em được thì cho Anh xin...”lại” !  Lý do là trong tập vở, Đức  đã chép y chang như thế ! ( Dạ thưa Cô, không phải ...” lỗi “ của em ...). Lần ấy, “ Vua Tự Đức “ ăn zéro và bị chép phạt. Cả lớp đã có một trận cười “ tơi tả “. Và từ ngày đó, Lê Tự Đức lại có thêm “ nick name “ mới là “ “ Em được thì cho Anh xin...”lại “ !

Giờ học cực kỳ “ căng thẳng “ của lớp là giờ học Toán với Thầy Lê Văn Tâm năm lớp 6 .Trông thầy rất “ dữ dằn “ với cặp kính mát màu đen luôn đeo trên mắt mỗi lần dò bài. Sau khi dò bài xong, thầy thường kêu Nguyễn Văn Đáo lên viết trên bảng để cả lớp chép vào tập vở vì Đáo viết chữ trên bảng rất đẹp. Những lúc như thế, thầy Tâm đi lên phòng hội đồng giáo sư. Khi nào thầy đi, thì trong lớp bắt đầu “ quậy “. Thế nhưng, có những lúc thầy trở về lớp đột ngột, vài đứa bị bắt quả tang đang “ ăn chơi nhảy múa “, đành phải “ăn đòn “ của thầy. Tôi còn nhớ có lần thầy kéo lỗ tai của các bạn ngồi bàn đầu vì bắt được tại trận các bạn đã chồm người ra khỏi bàn, để xem ké Tivi ở nhà thầy Trần Hữu Duận , qua cửa sổ lớp. Hôm đó, tôi ngồi ở bàn nhì và cũng run sợ cuống cuồng vì mình cũng có “ chen lấn “ tham gia trong “ phong trào “ xem ké Tivi, đang chiếu show “ Wild Wild West “ mà chúng tôi rất yêu thích. Giờ học ấy qua đi và tôi hú hồn được...thoát nạn !!!

Có những chuyện xảy ra bên ngoài cửa lớp cũng còn in đậm nét trong tôi :

Một lần, đang đứng sắp hàng chuẩn bị vào lớp, chung với các lớp khác, chật kín cả sân trường. Không biết chuyện gì xảy ra, mà kết quả là nguyên một cây cà- rem được phóng ra thình lình, từ đâu đó, như chiếc phi tiêu, rất “ kiếm hiệp “ đến nỗi, phần que cầm của cây cà- rem , bay lọt vào lỗ tai của một bạn, tôi không còn nhớ rõ họ, tên , trong lớp tôi, đang đứng sắp hàng. Không thể tưởng tượng nỗi, hình ảnh hãi hùng khi chứng kiến nạn nhân  khóc rống lên vì đau đớn, lấy tay ôm lỗ tai đang chảy máu, trong khi cây cà - rem , cắm ở lỗ tai, kem vẫn cứ chảy ròng trên những ngón tay, đang ôm lấy tai, run rẩy. Trưởng lớp Nguyễn Văn Công phải đưa ngay “ nạn nhân “ lên phòng y tế học đường để cấp cứu. Rất may là bạn ấy không bị ...” điếc “ sau tai nạn khủng khiếp này. Vụ “ án mạng “ vẫn không tìm ra thủ phạm vì lúc đó ngoài sân trường có cả mấy chục lớp cũng đang đứng sắp hàng vào lớp.

Ai đã là học trò trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng của những thập niên 1970, chắc không thể nào quên được quán nước Bà Mười nơi ngã tư đường Lê Lợi – Thống Nhất, bên hông trường Nữ Trung học, mà mỗi bữa trưa, khi đi đá banh về, trước khi vào lớp học, đội banh của lớp tôi, thường ghé vào chia nhau từng ly nước chanh đường, hay nước xi-rô, hay ly nước đá lạnh, để “ bồi dưỡng “, đồng thời để “ nhận xét, phê bình “ và “ cải vã “...tưng bừng, về trận đá vừa mới chấm dứt ở sân Chi Lăng trưa hôm đó. Thậm chí, những trận cãi cọ, xoay quanh chuyện bóng đá : “...Mi...cà chớn, chơi “ tứ “, không chịu đưa banh cho tau...Mi mà đưa tau quả đó, là lớp mình ăn rồi ! “ hay là : “...Đá dở ẹt mà bày đặt... lừa” v..v...Có khi lên đến “ cao trào “ dẫn đến “ đánh đấm “ khiến cho Bà Mười phải đuổi cả đám như đuổi “ tà “. Mỗi lần nhớ lại chuyện này, tôi cứ cười hoài trong bụng. Sao mà hồi đó, “ ngây ngô “ đến thế không biết !

Từ quán nước Bà Mười và rồi sau này đến những quán cà phê Tuổi Ngọc ( góc ngã tư Pasteur – Lê Lợi ), quán Thiên Nga (trên đường Thống Nhất, nằm gần ngã tư Duy Tân - Thống Nhất ) , hay cà phê Lộng Ngọc ở đường Phan Đình Phùng v..v... là những kỷ niệm dấu yêu của học trò Đà Nẵng, một thời “ Ngày Xưa Hoàng Thị “ mộng mơ, tương tư các tà aó dài  của các cô trường Nữ trung học Hồng Đức, Phan Thanh Giản, Bồ Đề, Bán Công, Sao Mai...

Sang năm lớp 9, trước khi chia tay nghỉ hè và chuyển lên Đệ nhị cấp , lớp chúng tôi có làm đặc san lấy tên “ Dấu Xưa “. Và kể từ đó, anh em trong lớp mỗi người một ngả...đứa chuyển trường, đứa đi xa, đứa đi ban B ( Toán ), đứa đi ban A ( Vạn vật ), đứa đi ban C ( Văn chương . Mới đó...vậy mà đã hơn 30 năm rồi !.

Trung học II cấp- Lớp 10B1 NK 1973-1974

Sau khi chia tay nhau lớp 9/3 để chuyển lên đệ nhị cấp  (  cấp Ba  ), chúng tôi mỗi đức chọn một ban. Đa số học sinh khá môn Toán – Lý hoá thì chọn ban B, còn lại thì chọn ban A, chuyên” gạo “ bài Vạn Vật, hay ban C chuyên ” nghiền ngẫm “ văn chương thi phú. Vì chúng tôi học sinh ngữ chính là Pháp văn, cho nên khi chuyển sang các lớp 10, lớp ban  A được gọi là lớp 10A1 , lớp ban B gọi là lớp 10B1 và lớp ban C gọi là 10C1. Tôi chọn ban B, và trở thành học sinh 10B1, niên khóa   1973-1974.

Suốt bốn năm học đệnhất cấp tại trường Phan Châu Trinh từ lớp 6 đến lớp 9, có tất cả ba lớp Pháp văn . Khi chuyển lên đệ nhị cấp, thì ba lớp Pháp văn này được gọp lại với nhau. Như vậy lớp    10B1 là lớp 10  ban Toán Pháp văn  duy nhất của trường vào niên khóa 73-74, bao gồm các học sinh từ các lớp  9/1,  9/2  và 9/3 và một số học sinh ở những trường khác chuyển đến như trường Nguyễn Hiền ở Đà Nẵng ,hay các trường ở Huế, Hội An v..v...làm sĩ số học sinh trong lớp tăng lên đến gần 60.

Các “ nhân vật ‘ được coi là “ hạt giống “ của lớp 9/1 như Lý An Thái, Trương Hoài Chính ; của lớp 9/2 như Võ Quốc Khanh, Hoàng Ngọc Tiến, Dương Thjành Phương, Nguyễn Tất Lịch; và của lớp 9/3 của tôi như Nguyễn Thế Dung, Phan Thanh Sơn,Trần Công Đức v..v...đã cùng nhau thi thố tài năng cùng với các bạn từ những trường khác chuyển về như Nguyễn Trương Hà Phương, Đoàn Kim Dũng, Nguyễn Xuân Cát, Nguyễn Văn Thuấn, Trần Hùng Dũng v..v...đã làm cho không khí học tập trong lớp 10B1, ngay từ những ngày đầu nhập học đã trở nên “ cực kỳ quyết liệt “.

Thầy giáo chủ nhiệm lớp là thầy Trương Đình Đức, dạy môn Toán. Thầy Huỳnh Khải dạy môn Lý Hoá. Thầy Đặng Đăng Khoa dạy môn Pháp văn.Thầy Tăng Kim Lân dạy môn Anh Văn, Cô Nguyễn Đỗ Thu dạy môn Vạn Vật. Thầy Ưng Đồng dạy Sử Địa, Thầy Trần Sáng dạy Việt Văn, Thầy Nguyễn Văn Hiến dạy Công dân giáo dục.

Bởi vì học ban Toán nên chúng tôi phải học nhiều về ...Toán, dĩ nhiên rồi. Cho nên , từ năm 10B1, chúng tôi học môn Tân toán học, ngoài việc học môn tóan Đại số. Khái niệm Tân toán học, bấy giờ, tương đối mới mẻ và chúng tôi rất thích học. Các môn Lý Hoá, Pháp văn, Việt văn, chương trình học cũng rất “nặng nề”. Các môn Sử Địa, Vạn vật, Anh văn, Công dân là tương đối “ nhẹ thở “. Học sinh trong lớp 10B1, ai nấy cũng đều lo học trối chết bởi vì sợ bị “ đôn quân”. Dù có lo lắng, nhưng chúng tôi vẫn sống hồn nhiên với bao kỷ niệm vui buồn của tuổi “ mới lớn “, Vì đã ở vào thời kỳ của lứa tuổi “ dậy..thì..là “ cho nên, chúng tôi đứa nào cũng có mụn trứng cá nở lấm tấm trên mặt. Có đứa bị mụn đầy cả mặt, thì được gọi là có cả “ một vườn hoa tình yêu trên mặt “ ! Giọng nói của chúng tôi đã bị bể tiếng, mỗi lần nói thì cứ nghe như “ vịt khò khè “, và lại bắt đầu biết “ làm dáng, màu mè”, biết mơ mộng vẽ vời, và còn bày đặt làm “ thơ “ , mặc dù là dân học Toán, để tặng cho các cô nàng “ áo tiểu thơ “ !!!

Xin trân trọng cám ơn thầy Trần Sáng, dạy Việt Văn năm lớp 10B1, đã “ khai sáng “ tâm hồn của chúng tôi, bằng cách cho chúng tôi tự do tìm tòi, nghiên cứu thêm, về thơ tiền chiến , rồi chép vào tập vở các bài thơ hay mà chúng tôi yêu thích và đem nộp cho thầy xem, để được từ 18 đến   20. Có lẽ, chíng phương pháp dạy học “ độc đáo “ này của thầy đã khuyến khích chúng tôi say sưa đọc và mê thơ tình của các thi sĩ trứ danh Việt Nam và từ đó đâm ra yêu thích môn Việt văn, dù là học sinh ban Toán. Khi giảng bài Chinh Phụ ngâm hau Cung Oán ngâm khúc, thầy hay dùng thơ của Đinh Hùng, Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương v..v...để so sánh, minh họa, về thi ca Việt Nam xưa và nay. Mặc dù, phần thi ca tiền chiến Việt Nam không nằm trong chương trình của ban Toán lớp 10,nhưng thầy Sáng đã khuyến khích chúng tôi đọc và tìm tòi ,nghiên cứu thêm. Tôi vẫn nhớ những câu thơ của thi sĩ Đinh Hùng mà thầy đã giảng trong lớp để minh họa cho sự khác biệt giữa quan niệm của cái chết trong thi ca Việt Nam. Thầy đặt vấn đề : Ngày xưa, thi sĩ ca ngợi kẻ sĩ xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Còn ngày nay, thi sĩ đã “ xem “ cái chết như thế nào ?

Khi tôi chết, hai chân đi đàng trước

Mắt đàng sau, giường ngủ lạnh côn trùng

Mười ngón tay, tôi đan giữa hư không

Và đôi mắt trũng sâu buồn ảo ảnh...                 ( thơ Đinh Hùng )

Rồi thầy hỏi cả lớp : Thế nào là buồn ảo ảnh ??? Chúng tôi đã ngồi im lặng trầm ngâm, nghe được từng hơi thở nhịp đập của trái tim, thấy đầu óc bồng bềnh, mênh mang , tư lự...để tự hỏi : Ừ nhỉ , buồn như thế nào thì được gọi là “ buồn ảo ảnh “ ? Có tiếng nói lào xào ở “ xóm nhà lá “: “ Ê mi ! thầy hỏi buồn ảo ảnh hay là buồn ảnh ảo, vậy mi ? “. Rồi có tiếng trả lời nho nhỏ đâu đó ở cuối lớp. “buồn ảo ảnh  hay buồn ảnh ảo đều được hết. Ảnh nào cũng là ảnh mà !!! He He He...” Nhớ lại , cười muốn bể bụng !

Học ban Toán vậy mà tôi cũng thuộc được :

Thơ Nguyễn Bính : “ Hoa chanh nở giữa vườn chanh. Thầy U mình với chúng mình chân quê.Hôm qua em đi tỉnh về.Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều “

Và thơ Xuân Diệu : “ Tâm sự mong manh nói ít nhiều.Em nhìn lơ đãng biết bao nhiêu.Chiều thu nắng đọng hàng mi biếc.Tôi nghĩ trong lòng em cũng yêu “

Rồi thơ Lưu Trọng Lư : “ Em nghe không mùa thi.Lá thu rơi xào xạc.Con nai vàng ngơ ngác.Đạp trên lá vàng khô “.

Cả thơ của Thanh Tâm : “ Đưa người, ta không đưa sang sông.Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng.Nắng chiều không thắm không vàng vọt.Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?” v..v...là cũng nhờ vào công lao dạy dỗ môn Việt văn của thầy Trần Sáng năm lớp 10B1.

Môn Pháp văn ,thầy Khoa dạy rất “tây “, bởi vì thầy xuất thân từ trường tây mà lị ! Lúc bấy giờ học bài trong cuốn sách Mauger II ( Cours de langue de civilization ) nói về gia đình Monsieur Vincent, sinh sống ở Montréal, Canada. So với các thầy cô dạy Pháp văn ở những năm đệ nhị cấp thì thầy Khoa trẻ hơn, hiền hơn và học với thầy “ thoải mái “ hơn vì thầy không bắt chúng tôi  phải học thuộc lòng ( récitation ) như hồi học lớp 8 hay lớp  9. Có lần , sau khi thi đệ nhất lục cá nguyệt xong, trời gần Tết mưa bay giăng giăng ngoài cửa lớp, thầy dạy cho chúng tôi bài thơ  Il pleut sur la ville của thi sĩ Verlaine, nhập đề như sau : “Il pleut sur la vile.Comme il pleut dans mon coeur.Quelle est cette langueur.Qui pénètre mon coeur...”, nghe “ đã “ vô cùng ! Cũng nhờ học được bài thơ này, mà một thằng bạn của tôi đã dám” liều  “chép tặng cho một cô nàng cùng học thêm lớp Pháp văn của Chú An, mà cô nàng lại là dân ban C Pháp văn của Nữ Trung học Hồng Đức mới chết chứ !!! Không ngờ kết quả là cô nàng đã từ tình trạng “ coi thường “ chuyển sang “ kính phục “ và rồi “ tình cảm nhẹ nhàng “ với nó...

Thầy Tăng Kim Lân, dạy Anh văn ( môn sinh ngữ phụ, bắt đầu học vào năm lớp  10 ) cũng để lại nhiều kỷ niệm buồn vui. Trong lớp 10B1 của tôi, có lẽ, Nguyễn Hùng “ Tề Thiên “ là học sinh không bao giờ có thể quên được thầy Lân, bởi vì thầy luôn “ ưu ái “ một cách bất thình lình, chỉ ngay Hùng Tề Thiên, ngồi bàn đầu để hỏi : “ What’s today” làm Hùng Tề Thiên, hồn vía lên mây nên trả lời u’ ớ, đành phải ăn “ hột vịt lộn “ của thầy rất nhiều lần...Tuy nghiêm khắc, nhưng thầy Lân lại có tinh thần văn nghệ rất vui. Nhớ mùa Noel năm lớp 10B1, thầy dạy cho cả lớp hát bài Slilent Night : “Silent night. Holly night.All is calm.Allis bright...” Mỗi năm khi Giáng Sinh về, nghe bài Silent Night là tôi lại nhớ đến thầy Lân, dáng người dong dỏng cao, gầy, đã dạy và say sưa hát cùng chúng tôi bài hát này, cách đây đã hơn 30 năm về trước …

Môn Vạn Vật, học với Cô Nguyễn Đỗ Thu, mỗi tuần một tiếng đồng hồ. Chúng tôi rất vui được học với Cô, vì Cô Thu đã dạy chúng tôi năm lớp 9/3. Cô Thu hiền, không bao giờ phạt học sinh nào trong lớp. Cô cũng không cho zéro như ...phát tờ rơi  ( flyers ), cho nên chúng tôi rất thích giờ học với Cô. Còn môn Công dân Giáo dục, học với thầy Hiến cũng rất thoải mái. Thầy có bộ râu trông giống như hình ông già in trên vỏ bao dao cạo râu hiệu Gillette. Thầy đi dạy bằng xe Jeep . Có lần Thầy vào lớp trễ, tay chân lấm đầy dầu nhớp xe, bởi vì thầy phải sửa xe Jeep của thầy bị hỏng máy giữa đường . Sau lần đó, cả lớp “ rút kinh nghiệm “, cứ mong sao cho xe của thầy bị chết máy ngoài đường dài dài...

Lên lớp 10, chúng tôi dường như đã không còn “ ngây thơ “ như hồi còn học lớp 9. Bỗng cảm thấy mình “ già “ hơn, “ người lớn “ hơn...Bạn bè từ năm lớp 9 “ giả từ “ trường Phan Châu Trinh cũng nhiều : Quang Gà, Trần Đại Phúc, Minh Tam Tạng vì học băng, phải chuyển qua trường Phan Thanh Giản. Sơn Lồi thì theo gia đình vào Sài Gòn. Thông Lùn thì chuyển vào Cần Thơ. Những khuôn mặt mới trong lớp 10B1  như Lê Minh, Phan Công Việt Nam,Đoàn Kim Dũng, Nguyễn Xuân Cát, Trần Hùng Dũng ( Dũng cận ), Nguyễn Văn Sơn ( Sơn Mỹ Lợi ), Trần Vĩnh Triều, Hoàng Quốc Trung ( Trung Xì trum ), Lý An Thái, Lê Quang Lợi, Lê Đặng Tân v..v...dần dần cũng chóng trở thành thân quen trong đời sống học trò hàng ngày của tôi. Kể từ đó, những ngày tháng học trò vui buồn của những năm đệ nhị cấp nhẹ nhàng trôi vào dòng đời mênh mông biển rộng...

Niềm thương nhớ...

Ai cũng có những kỷ niệm của một thời học trò áo trắng sân trường cùng thầy cô bạn hữu để ấp ủ nhớ thương, và để kể lại cùng bạn bè, với bao lưu luyến, về ngày tháng của tuổi hoa niên...Tôi cũng không ngoại lệ, để bây giờ  có dịp ngồi ôn lại và kể với mọi người. Đã biết bao nhiêu năm trời xa cách, mỗi lần nhắc đến ngôi trường trung học thân yêu Phan Châu Trinh Đà Nẵng, lòng tôi lại cảm thấy bùi ngùi...Cái cảm giác bỡ ngỡ, bồi hồi, nơm nớp lo sợ của ngày khai trường đầu tiên, năm học lớp đệ thất, sống dậy mãnh liệt trong tôi. Lời dặn dò của thầy Phương Giám thị, dường như vẫn còn văng vẳng đâu đó, trong gió Thu mơn man trên những cành kiền kiền giữa sân trường...Rồi những gương mặt thân quen, bè bạn, đứa còn, đứa mất...hiện về trong ký ức của tôi, làm tôi thấy lòng mình tê dại...

Vâng, thời gian cứ vẫn lạnh lùng trôi  và không ai có thể làm cho thời gian ngừng lại...Bạn bè ơi ! Biết làm sao tìm lại được những giờ ra chơi, cùng nhau nô đùa hồn nhiên, vô tư của những ngày thơ ấu cũ ?

Có lẽ, cũng như tất cả những ai đã từng làm học trò aó trắng thư sinh, những kỷ niệm của tôi , về một thời được làm học trò trường trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng, sẽ mãi mãi không bao giờ phai nhạt...

“ Phượng vẫn nở, nơi cổng trường ngày cũ

Hàng kiền kiền, lá vẫn mọc xanh tươi

Ve vẫn râm ran, trưa muà Hạ...ngậm ngùi

Thương nhớ quá.Ôi ! Một thời đi học…

 

Phan Thanh Sơn

Cựu h/s Đệ thất PCT, nk 1969 – 1970

San Jose, Hè 2004

( Kỷ yếu Hội ngộ PCT-HĐ, 30 năm xa xứ,  2005 tại Hải ngoại )

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

 

                   DaiThoThayNguyenDangNgoc

Nghĩa bạn ơn thầy còn chút đây

Ba mươi năm lẻ tháng năm chầy !

Người đi lạc lõng hồn Chung Tử

Kẻ ở bâng khuâng dạ Bá Nha

Dâu bể lớp xưa xa bạn hữu

Tang thương trường cũ biệt cô thầy

Xứ người họp mặt dăm ba đứa

Tấc dạ bồi hồi nhớ chẳng khuây.

Lam Hà

(  ĐS Kỷ niệm 50 năm thành lập Trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng,

California 29/11/2002  )

Mừng Đại Thọ 90 năm Thầy Nguyễn Đăng Ngọc
tại San Diego ngày 28 tháng 12 năm 2013

(Photo by Nguyen Dang Nam)

 

 


 

(xìn bấm vào hình để xem tập ảnh)

 

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

 

Truong PCT 06 L2

Tặng các em học sinh PCT của tôi

 

Ta đến khi tóc xanh

Ta về khi tóc bạc

Này, mai trên trường xưa

Có một người thiếu mặt

 

Ta đến hồn như trăng

Ta về lòng như suối

Cây sao già trên sân

Người thua ta một tuổi

 

Bước đi trên hành lang

Bước đi trong lớp học

Cọng lại bằng con đường

Nối vòng quanh trái đất

 

Ta đã nói triệu lời

Ta đã viết triệu câu

Bóng hình ta khắp nơi

Từng góc tường đóng bụi

 

Ta lặng lẽ âm thầm

Bốn mươi năm cửa lớp

Còn gì cho ta đây

Những ngày dài cỏ mục ?

 

Tiễn ta về hôm nay

Hàng cây xanh cúi mặt

Gốc phượng hồng ngẩn ngơ

Học trò thì đâu mất !

 

Ơi tượng đồng lặng câm

Người vô tri vô giác

Sao hiểu được lòng ta

Như sóng triều dào dạt !

 

Ơi phấn trắng bảng đen

Thôi cũng đành vĩnh biệt

Rôi năm tháng cuối đời

Chắc nhớ người tha thiết !

 

Mai có ai khóc ta

Khi về thăm trường cũ

Cứ nhìn mây lưng trời

Lắng tai nghe gió thổi...

 

Ta đến khi tóc xanh

Ta về khi tóc bạc

Đóa hồng nào cho ta

Sao đóa hồng tím ngắt !

 

Trần Hoan Trinh

( “ Bỏ Trường Mà Đi “, 2002 )

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

 

Truong PCT 1954 1966 Edited 

Là mộng ước một thời

Là trái tim muôn thuở

Là hi vọng sáng ngời

Là tương lai bất tử

 

Ơi ngôi trường thân yêu

Cả một đời ở đó

Vẫn còn thấy chưa nhiều

Vẫn còn nghe mới lạ

 

Và em là hơi thở

Đã nuôi sống tình anh

Em là đêm trăng thanh

Cho lòng anh bát ngát

 

Em là dòng suối mát

 Em là trận mưa hiền

Em như một nàng tiên

Cho trường thành huyền thoại

 

Trường và em chói lọi

Trong sâu thẳm hồn anh

Em và trường mông mênh

Hai thiên đường rực rỡ

 

Chiều nay như trẻ nhỏ

Anh ngủ trong tình em

Nghe mùa Xuân trở lại

Trên sân trường cỏ xanh

 

Trần Hoan Trinh

(  “ Tiếng Chim Ngoài Cửa Lớp “, Đà Nẵng  2002   )