Trung Học Phan Châu Trinh

User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active

 

ThanksGiving 2022 sắp đến ...  gợi nhớ lại một ngày cuối tuần của ThanksGiving 2002

NhaThayNguyenDangNgoc 1954EHình HM chụp tại nhà thầy Ngọc tối thứ bảy Nov 30/2002

Cùng với một số đông các anh chị cựu học sinh Phan Châu Trinh , chúng tôi đến thăm Thầy Cô Nguyễn Đăng Ngọc tại nhà ở San Diego.

Hai mươi năm qua nhanh, Thầy Hiệu  trưởng và một số học trò của Thầy nay đã vĩnh viễn ra đi.

Nhân mùa Lễ Tạ Ơn năm nay, xin  thành kính tưởng niệm Thầy Hiệu trưởng Nguyễn Đăng Ngọc, và tưởng nhớ các anh chị, các bạn cựu PCT cùng thân hữu sau đây, mà chúng tôi được hội ngộ  hoặc được nghe nhắc đến trong buổi họp mặt, 20 năm trước  :

Sư Tịnh Đức Tôn Thất Toản, các chị Trần thị Ngọc Trai ,Trương thị Phi Ánh, và các anh Trần Huỳnh Châu, Trần Hữu Hội,Tôn Thất Tuấn, Nguyễn Thu Giao, Nguyễn Văn Bé, Trương Văn Thương, Huỳnh Phước Toàn...

ThanksGiving 2002...Họp Mặt tại tư gia Thầy Cô Nguyễn Đăng Ngọc

Ngày Họp Mặt Phan Châu Trinh năm nay, 2002,đặc biệt “ Kỷ niệm  50 năm thành lập của Trường”, nên tự nhủ thế nào cũng phải đi một lần để gặp lại Thầy Cô xưa cùng bằng hữu cũ. Và chúng tôi về Cali với mong ước rộn ràng đó .

Đêm Đại hội, tối 29 tháng 11, 2002 cũng như các buổi Họp mặt khác đã được Thầy Tạ Quốc Bảo nói đến trong một bài tường thuật với đầy đủ chi tiết. Vì thế bài viết nhỏ này, do sự nhắc nhở của người bạn trong “ Một Thời Phan Châu Trinh “, là những giòng ghi vội, về buổi Họp Mặt tại tư gia của Thầy Cô Nguyễn Đăng Ngọc ở San Diego, hôm 30 tháng 11, 2002 – một thứ bảy của cuối tuần Lễ “ Tạ Ơn “ làm buổi Hội ngộ giữa Thầy trò thêm ý nghĩa.

Thứ bảy 30/11/2002 , Tôn Nữ Lệ Ba diễn ngâm Kiều ở Viện Việt Học , Westminster, Cali. Trong phần giới thiệu về nữ nghệ sĩ đến từ Toronto này, Thầy Nguyễn Đăng Ngọc có nói đôi lời. Chen chúc trong đám đông khán giả hôm đó, với rất nhiều cựu học sinh Phan Châu Trinh, cho cảm tưởng như vừa được thấy lại người Thầy học cũ trên bục giảng .

Buổi chiều ở viện Việt Học ra, đang còn lâng lâng với hai câu ngâm Kiều ( “ Thiện căn ở tại lòng ta / Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài “ ) , Liên Hương và chúng tôi vội vàng về nhà sắp xếp các thức để “ đi xa “.

Từ nhà anh chị Trần Huỳnh Châu và Liên Hương đến San Diego mất khoảng hai giờ. Trên đường đi đến buổi Họp Mặt mà trong xe thì được anh Trần Huỳnh Châu cho nghe lại những bài hát quen thuộc, rất hay và đầy gợi nhớ của thập niên 60’s, nên càng nao nức. Thầy Nguyễn Đăng Ngọc là một trong những Thầy Cô ở Trường xưa mà chúng tôi mong mỏi được gặp lại nhất.

Khi chúng tôi đến nơi thì gần như đông đủ và đã có Sư Tịnh Đức Tôn Thất Toản từ Dallas  vừa  mới đến Anaheim lúc 5 giờ chiều, kịp xuống họp mặt. Mới bước vào nhà Thầy Cô Ngọc đã nghe những tiếng cười nói xôn xao, rộn ràng. Các bạn học cũ được gặp Thầy trước , tất cả đều cho biết Thầy còn mạnh, nhưng vẫn không khỏi ngạc nhiên và mừng thấy Thầy chẳng những khỏe mà còn rất phong độ ,không khác gì nhiều hình ảnh Thầy Hiệu trưởng ngày xưa ở Trường, dù nay Thầy ở tuổi đã cao. Cô Ngọc cũng thế, thêm vẻ cởi mở của Cô  làm cho buổi họp  mặt càng vui hơn .

Tối nay cũng có gần hết các con của Thầy Cô : Nguyễn Đăng Yên Trúc, Nguyễn Đăng Khoa, Minh Tâm, Ngọc Châu, Ngọc Anh, anh Thành, rễ của Thầy Cô . ( Ngọc Quỳnh và Ngọc Bích cùng gia đình hiện ở Úc ) , và nghe Thầy Cô đã có đến những  20 cháu nội, ngoại.

Phía học trò thì ngoài  Sư  Tịnh Đức-Tôn Thất Toản , Nguyễn Ngọc Ái, Nguyễn Văn Mót, Nguyễn Tuấn, Võ thị Thanh Tâm, Phan thị Thu Liên, Phan thị Thu Hà... Còn lại hầu hết đều là các anh chị trước một hay nhiều niên khóa. Các chị Võ thị Thương, Nguyễn Diệu Liên Hương..., các anh Trần Ngọc Hội ( hay Trần Hữu Hội , theo nhắc nhở của anh Toàn ), Phan Nhật Nam, Nguyễn Thu Giao, Phan Bái (và chị Phi Ánh, một đàn chị trong nghề nghiệp ), Trần Gia Phụng ( và chị Nguyễn Thị Thường ,)Nguyễn Văn Bé,Huỳnh Tấn Hoàng, Huỳnh Phước Toàn , Trương Văn Thương...và nhiều anh chị khác nữa ...Ngày xưa ở trường, có thể không quen nhưng cũng đã biết, nay gặp lại sau mấy chục năm xa Trường, và ở  nơi quê người, tình thân Phan Châu Trinh vẫn khiến cho tất cả chuyện trò vui và thân mật.

Chị Võ Thị Thương, hồi nào đã nghe tiếng chị học giỏi, hôm nay được chị cho hay năm rồi chị được chọn là “ người immigrant đóng góp nhiều nhất cho Quebec “, một tiểu bang ở Canada nơi chị hiện cư ngụ. Tin vui của chị cũng là một hãnh diện chung cho cựu học sinh Phan Châu Trinh chúng ta. Như muà Hè 2002 vừa qua, các anh Nguyễn Chí Thiệp ( tác giả “ Trại Kiên Giam “ và “ Việt Nam khát vọng dân chủ tự do “ ) và Trần Gia Phụng đã mang lại vinh dự cho Trường khi đoạt giải thưởng văn học của Hội Y sĩ Việt Nam trên toàn thế giới.

Nguyễn Diệu Liên Hương, một trong những cựu học sinh Phan Châu Trinh sốt sắng trong việc tương trợ bằng hữu , và cũng là người bạn hiếu khách với chân tình cởi mở.

Anh Trần Hữu Hội ,( thuộc thế hệ Phan Châu Trinh đầu tiên ), đã rời Trường khi chúng tôi vào học, nhưng vừa gặp anh là nhận ra ngay ! “ Anh Hội-bây giờ “ không khác chi nhiều “ Anh Hội- Mùa hè ly biệt “, với nét thật vui trong tấm ảnh 6x9 nơi tập ảnh bạn bè “ Kỷ Niệm Lưu Bút Ngày Xanh , PCT 1954 “ của một người bạn học cùng lớp với anh ngày xưa, Chị Trần thị Ngọc Trai, mà tôi có dịp được xem gần đây, trước ngày qua Cali họp mặt.

Anh Phan Nhật Nam, nghe tiếng từ lâu rồi “ , ngày ở Phan Châu Trinh anh nghịch nhất lớp ( theo lời anh Trương Công Nghệ, trong tờ Nội San Kỷ niệm 50 năm thành lập trường PCT ở Cali  ). Bây giờ xem chừng anh vẫn vui và nghịch như hồi còn đi học ! . Vừa gặp Sư Tịnh Đức Tôn Thất Toản, tác giả “ Mùa Hè Đỏ Lửa “  đã thân tặng ngay biệt danh “ Bồ tát Bạt tai “ !

Anh Nguyễn Thu Giao , cũng là đàn anh trong nghề nghiệp, nay mới được biết thêm nhà in “ Tương Lai “ ở đường Võ Tánh xưa, đối diện nhà chúng tôi, là Toà soạn của Tờ báo anh từng cọng tác ngày ở Sài Gòn.

Anh Trương Văn Thương, nghe kể hồi ở trường cũng “ nghịch có hạng “, nhưng chẳng hiểu sao có một năm anh lại được bạn bè trong lớp bầu lên làm ...trưởng ban trật tự ! ( cả lớp năm đó dễ thở  ?! ). Anh Thương chắc hẳn còn nhớ “ bài thơ ( nhại )” của vua Lê Thánh Tôn  ?

“Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương

Miếu ai như miếu vợ...thằng Thương ( ! )

Ngọn đèn dầu tắt ......................!!! ( * )

 ( * : theo nguyên văn nhắc nhở của hai bạn cùng lớp với anh Thương là Huỳnh Phước Toàn và Nguyễn Diệu Liên Hương )   

Gặp anh Nguyễn Văn Bé, liên tưởng đến anh Nguyễn Văn Nam, anh của anh Bé, đã mất ở trại “ cải tạo “.

Gặp Nguyễn Văn Mót , nhớ lại bao lần cùng bạn hồi hộp đứng đợi kết quả vấn đáp, ngày chung một phân khoa ở Sài Gòn.

Gặp anh Phan Bái, biết anh hát hay ( qua Thầy Tạ Quốc Bảo ) nhưng tiếc chưa được nghe, tuy đã được thưởng thức những ca khúc trong CD “Những dòng Thơ Nhạc Hoàng Thi “ của anh.

Gặp anh Huỳnh Phước Toàn , biết chị Trần Thị Mai, hiền thê của anh, một thời “ người đẹp Nha Trang “. Tiếc chưa gặp “ ngũ long công chúa “.

Ngoài ra còn được gặp nhiều anh ,chị khác...Một anh lớn ( xin lỗi anh, không biết hết được tên   ), nhắc đến anh Tôn Thất Tuấn, một người bạn cũ của anh ở Trường xưa. Tiếc không có dịp nói chuyện với anh sau đó, nhưng nhắc nhở tình cờ của anh đã gợi cho tôi nhớ lại Trại Hè của  trường Phan Châu Trinh ,cuối niên khóa 1959-60 ở đồi thông Mỹ Thị, và hình ảnh người Hướng đạo hồn nhiên, tươi cười trong trò chơi tập thể của toàn trường hôm đó .

Vài kỷ niệm nhớ về các Thầy Cô, bằng hữu cũ, vài mẫu chuyện ngày xưa, những ai “ nghịch” nhất , ai “phá” nhất trường,  ai nổi tiếng “ học giỏi “... , cũng như được nghe nhắc đến  “những tiếng hát hay ” của trường, gợi nhớ những đêm Liên hoan Tất niên PCT rộn ràng  xa xưa  ... Và thật vui được nghe kể lại ngày ở trường có lần được giúp gỡ hộ vạt áo dài kẹt ở “ sên “ xe đạp ...( Nhân đây nhờ anh chuyển lời cám ơn ân nhân tử tế đó ... )

Các em con của Thầy Cô lẫn trong đám học trò cũ của Thầy, không khí ấm cúng tựa như một buổi Họp Mặt gia đình. Sau bữa ăn tối ( với nhiều món Huế, đặc biệt nồi bún bò thật lớn nóng hổi và hấp dẫn, nghe do chính Nguyễn Đăng Khoa  nấu ), tất cả ngồi ở bàn , bao quanh Thầy Cô và được Thầy kể chuyện ngày xưa : Cô Ngọc chính là “Cô Láng Giềng” của Thầy...Mỗi người thêm vào một câu và Thầy Cô vui vẻ sẵn sàng giải đáp  “ thắc mắc “của đám học trò cũ tò mò !

Ôi chao là vui , không thể nào tưởng tượng có ngày được nghe Thầy Hiệu trưởng nói chuyện cởi mở như thế ! Và rồi cũng không khỏi nhớ lại thuở còn ở Trường, mỗi lần gặp Thầy, chào Thầy xong là tôi cúi đầu im lặng, chân bước như một cái máy. Thầy đi qua khỏi, tôi thấy nhẹ hẳn người ! Ngày đi học chẳng phá nghịch chi để bị để ý, nhưng không hiểu sao tôi rất sợ Thầy, như tất cả các học sinh khác trong trường thuở đó đều sợ Thầy “ hơn sợ cọp “ ( chữ của anh Trương Công Nghệ ). Chắc Thầy có một oai phong nghiêm riêng khiến mọi người phải nễ sợ ! Ngoài ra, ngày ở trường, bạn bè thường bảo nhỏ với nhau là Thầy còn như biết rõ từng người học trò một !

Mấy chục năm qua nhanh, nhưng điều mà có lẽ tất cả các học  sinh còn ghi nhớ mãi là trong thời gian làm Hiệu trưởng, Thầy đã cho những thế hệ PCT chúng tôi những niên học khó quên, trong một quy cũ học đường đúng nghĩa, trật tự tôn nghiêm mà vẫn vô cùng êm đềm.

Xin cầu chúc Thầy được luôn sức mạnh để Thầy bao giờ cũng còn như cái tâm cho học trò Phan Châu Trinh xưa về vây quanh.

Buổi tối Họp mặt nơi nhà Thầy Cô Nguyễn Đăng Ngọc, cũng như những lần họp mặt khác và Đêm Hội Ngộ vừa qua là một kỷ niệm khó quên, một dịp quý cho Thầy trò và bạn hữu  gặp lại nhau để thấy rằng, trong tâm hồn chúng ta , những ngày tháng ở Phan Châu Trinh xưa kia không bao giờ cũ ... 

Thi Vân

Canada, mùa đông 2002

User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active

 DaNang xua duong TranHungDao E

Tìm tôi cát trắng Tiên Sa

Mỹ Khê gió lộng, Sơn Chà vượn kêu

Dung dăng có những buổi chiều

Tuổi thơ với những cánh diều đi hoang

Tìm tôi vận động Chi Lăng

Tranh nhau đá bóng tung tăng hết giờ

Nghiêm trang có buổi chào cờ

Thầy đăm chiêu đứng, tôi chờ điểm danh

Sân trường nắng nhẹ vàng hanh

Lòng tôi áo trắng quần xanh rộn ràng

Tìm tôi tô bún Nguyễn Hoàng

Cây me Bưu điện, gốc bàng Gia Long

Ly sinh tố dốc Cầu Vồng

Đạp xe quanh quẩn nỗi lòng nhớ ai

Tìm tôi trước cổng Sao Mai

Bánh mì Thống Nhất, chè khoai Chợ Cồn

Phan Châu Trinh lớp học buồn

Nhớ em Hồng Đức chẳng buồn nhớ tôi

Tìm tôi phố thị nhỏ nhoi

Cà phê Thạch Thảo ai ngồi lặng câm

Nhớ em mái tóc cài trâm

Dáng thơ lụa mỏng âm thầm đợi mong

Hẹn nhau sân cỏ Diên Hồng

Có đêm chiếu bóng thông tin cuối tuần

Tìm tôi giữa Cổ Viện Chàm

Núp pho tượng cổ nhớ huyền sử xưa

Giữa đường lúp xúp cơn mưa

Ghé vào núp bóng sân chùa Hải Châu

Tìm tôi quán cóc bên cầu

Loanh quanh xóm nhỏ phía sau Thanh Bồ

Chiều chiều chuông đổ nhà thờ

Tháp cao tượng Chúa tín đồ có tôi

Một lần bí tích lên ngôi

Có em ngoan đạo giữ đời thiện tâm ...

Tìm tôi ghé bến Bạch Đằng

Tuổi tình nhân đợi trăng vàng bên sông

Thuyền ai lơ lững giữa dòng

Câu hò mái đẩy cánh lòng bâng khuâng...

Tìm tôi bệnh viện Duy Tân

Trung tâm Tiếp Huyết tinh thần thương binh

Tuổi thanh niên rất chí tình

Nghĩa tình huynh đệ, huyết tình quốc gia

Tìm tôi hăm chín tháng ba

Trái tim rã nát, hồn tha ma buồn

Sân Toà Thị Chính mưa tuôn

Đợi khai lý lịch : Kiếp tàn ...tàn quân

Tìm tôi trong trại Hoà Cầm

Ngày chăm lao động, đêm nằm nhớ con

Thương mình, thương vợ còn son

Thương đau vận nước, thương mòn ... ngày ra

Tìm tôi trong cõi người ta

Trong thơ ấu cũ, giữa Đà Nẵng xa

Bây chừ, phố lạ mưa sa

Bụi bay xa lộ, khó mà ...tìm tôi

Vương Ngọc Long

( Kỷ yếu hội ngộ PCT-HĐ, 30 năm xa xứ,  2005 tại Hải ngoại )

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

 

Thầy Nguyễn Thúc Hào là giáo sư Toán lâu năm ở trường Quốc Học Huế. Vào năm 1944 trở đi Thầy còn dạy ở một vài trường khác : Lycée Việt Anh và hình như cả ở Thiên Hựu. Dáng người thấp bé nhưng cân đối. Mô tả  Thầy, một số học sinh thường nói  Thầy “ nhỏ bé “ chứ không phải là “ lùn “. Đôi mắt sáng, vẻ mặt thông minh, vầng trán cao so với khuôn mặt, ăn mặc lúc nào cũng chững chạc, thầy đã tự nhiên làm cho học sinh kính trọng. Tính tình hoà nhã, trầm lặng, ít nói nhưng vẻ xa cách bên ngoài như che dấu một  tâm hồn tài tử. Nghe đồn Thầy vẽ đẹp, đàn vĩ cầm hay, nhưng riêng tôi chưa được nghe Thầy đàn và thấy Thầy vẽ. Hình như Thầy chẳng có mấy tham vọng chính trị hay địa vị. Sau đảo chánh Nhật ngày 9 tháng 3 năm 1945 và sau lúc Việt Minh lên nắm chính quyền , không thấy Thầy lên tiếng hay tham gia vào một phong trào nào, trong lúc phần đông giáo sư ở Huế đều tỏ thái độ hay có những hoạt động mang ít nhiều màu sắc chính trị. Nếu tôi nhớ không sai thì hình như  Thầy có làm hiệu trưởng Quốc Học một thời gian rất ngắn, từ lúc Thầy Phạm Đình Ái được bổ dụng làm Giám đốc Học Chánh miền Trung cho đến lúc Thầy đi Hà Nội để dạy Đại học hay vì biến cố 19 tháng 12 năm 46, trường đổi ra khu IV.

Dù sao lúc trường Quốc Học ra khu IV ( Hà Tĩnh ) đổi tên là Huỳnh Thúc Kháng, rồi về sau lại kết hợp với trường Quốc Học Vinh ( Nguyễn Công Trứ ) thành trường cấp 3 của Nghệ An, không thấy  Thầy tiếp tục dạy. Thầy đã trở lại quê nhà sống một cuộc sống lặng lẽ.

Mãi vào quảng 1950, trước thời kỳ “ Phóng tay phát động quần chúng cải cách ruộng đất “, cảm thấy cơn sóng gió sắp đến, một nhà trí thức không thể sống kiểu trùm chăn trong một chế độ chuyên chế, Thầy nhận lời mời mở lớp Toán Học Đại cương ở quê nhà, cùng thời kỳ với lớp Dự bị Văn khoa của giáo sư Đặng Thái Mai mở ra ở Thanh Hoá.

Quê  Thầy Hào là làng Xuân Hồ, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, không xa làng Đan Nhiệm quê của cụ Phan Bội Châu, và cũng không xa quê của  Thầy Nguyễn Dương Đôn ở Hưng Nguyên bao nhiêu.

Một rủi ro cho gia đình tôi đã đưa tôi đến quê hương Thầy Nguyễn Thúc Hào, nơi tôi còn giữ một kỷ niệm khó quên, một cảm tình sâu đậm với đại gia đình Thầy, đặc biệt với Cụ thân sinh Thầy, Cụ Nguyễn Thúc Dinh.

Năm ấy tôi đang dạy học tại trường Huỳnh Thúc Kháng đặt tại Bạch Ngọc, Nghệ An. Cuộc sống của một giáo sư cấp ba, di tản xa gia đình đến một vùng tương đối gọi là hậu phương, cơ cực khó lòng nói cho hết. Có thể so sánh với cuộc sống của một sĩ quan miền Nam đi “ học tập “ mà không được gia đình thăm nuôi, ngoại trừ  việc không bị quá câu thúc, ràng buộc. Ở trong một xã hội nông nghiệp khép kín, thiếu thốn, nghèo đói, chúng tôi phải “ lao động “ dưới mọi hình thức sơ đẳng nhất để tồn tại. Ngoài việc soạn bài, chấm bài và những giờ giảng dạy ở lớp chúng tôi phải đi gánh nước, kiếm củi xa đến hai ba và cũng có lúc đến bốn năm cây số để tắm rửa và nấu nướng hàng ngày. Chúng tôi phải nuôi gà, trồng rau, làm hàng xáo ( giã gạo bán ra để kiếm tấm cám )...bù đắp vào tiền lương chỉ đủ sống ở mức rất thấp trong vòng hai ba tuần lễ.

Tuy nhiên trong thiếu thốn nghèo khó chúng tôi không thấy quá buồn phiền, chán nản. Nề nếp, lối sống  của dân chúng đã thay đổi nhiều nhưng chưa đổi thay trong căn bản. Phong tục tập quán còn nhiều nét hiền hoà của truyền thống Việt Nam ngày xưa. Trước lúc xảy ra phong trào phê bình và kiểm thảo giáo chức mà nhiều người gọi là phong trào “ tổng xỉ vả “ trong học đường và phong trào cải cách ruộng đất trong xã hội, học sinh và dân chúng nói chung còn chơn chất. Hơn nữa sự thiếu thốn là một sự thiếu thốn chung. Trừ ra một số ít may mắn còn tích luỹ lại được ít nhiều của cải, dân chúng đại đa số là nông dân cũng cơ cực như chúng tôi. Cảnh nghèo đói chung hình như làm cho cảnh nghèo đói riêng nhẹ nhàng hơn. Học sinh vẫn có tinh thần hiếu học và còn giữ tình cảm thầy trò . Nhiều người bữa đói bữa no, cũng chăm chỉ cần cù và đặc biệt họ hiểu được cái khó khăn của thầy. Chia sẻ gian khổ, có lúc họ đến gánh giúp gánh nước, vác hộ một cành củi nặng...Tình cảm thầy trò khá chân thật không làm cho tôi nhận thấy nghề dạy học  là nghề bạc bẽo như người ta thường nói.

Hơn nữa, sống gần gũi với thiên nhiên nhiều lúc cũng có những giây phút thư thái, mộng mơ, quên đi những khổ cực  thể xác. Những cảnh “ ngàn dâu xanh ngắt một màu”, “ một đàn cò đậu dưới ghềnh chiều hôm “, hay “ cành lê trắng điểm một vài bông hoa “...nhiều khi như vẽ ra trước mắt những bãi dâu mênh mang, những khóm lau bàng bạc giữa dòng sông Lam  xanh biếc  và những cây mận đầy hoa trắng bên một ngọn đồi . Bạch Ngọc lại có những di tích lịch sử  khiến tự nhiên cảm thấy gắn bó với đất nước. Tương truyền cọ một vị Thải tử nhà Lý bị thương trên đường đánh Lão Qua trở về, đã mất ở đó nên ở núi Ghềnh thuộc Bạch Ngọc có đền thờ Ngài. Đền kiến trúc theo kiểu chữ “ Công “, một lối kiến trúc đặc biệt Việt Nam, xây trên một ngọn đồi cao nhìn xuống sông Lam, uy nghi, hùng vĩ. Trước năm 1945 , thời còn nhà Nguyễn, chính phủ Nam Triều hàng năm có đứng ra tổ chức tế lễ.

Nhưng cái lý do chính giúp tôi chịu đựng được mọi gian khổ là sự hy sinh vô bờ bến của nhà tôi. Cực khổ, thiếu thốn nhưng không bao giờ than van, rên rỉ, còn khuyên tôi cố gắng chịu đựng. Chúng tôi lại vừa có đứa con trai đầu lòng, mũm mĩm, ngây thơ. Cưới nhau từ Huế chưa được bao lâu, tưởng cùng nhau đi hưởng “ tuần trăng mật “ thì bị vất vả trong nghèo túng da diết. Nhưng giữa gian khổ, chúng tôi cảm thấy gần gũi, gắn bó với nhau nhiều hơn lúc nào hết, nhất là sau lúc sinh đứa con đầu lòng. Nếu câu nói  “ yêu nhau không phải là nhìn nhau mà nhìn về cùng một hướng : ( St. Exupéry ) là đúng thì chính lúc đó chúng tôi đã nhìn về một hướng : Chịu đựng mọi gian khổ, hy sinh bằng mọi cách cho đứa con đầu lòng  sung sướng. Cuộc sống có một ý nghĩa thật cao cả khi chắt chiu bảo vệ lấy đứa con.

Một buổi sáng, con tôi bấy giờ đã lên ba, chơi tung tăng ở trước sân nhà. Không có xe cộ, không có du đãng, mẹ mìn ...ở một nơi vắng vẻ, xa xôi, chúng tôi tưởng không thể có chuyện gì bất ngờ xảy ra được, ngoài chuyện đứa bé té ngã nên vừa trông chừng con vừa làm việc trong nhà. Chợt nghe có tiếng khóc thét. Tôi vội vã chạy ra. Một con chó nhỏ, rất nhỏ, không lớn hơn con chó mới sinh ra bao nhiêu, lỡ lói, dơ bẩn, đã từ đâu chạy đến, sấn vào cấu cắn con tôi. Có lẽ nó muốn dành miếng bánh con tôi đang cầm trên tay. Con tôi thì ngồi bệt xuống đất, xua hai tay để tự vệ. Càng xua, con chó càng cắn, cắn vào đầu vào tay, vào chân, vào bụng...Khi vừa đến nơi, ẳm con trên tay, con chó đã chạy mất dạng. Tôi không có cách gì giữ nó lại để quan sát. Mấy người láng giềng nghe tiếng khóc la cũng vội vã chạy đến. Rồi chẳng biết vô tình hay hữu ý, sợ rắc rối cho chủ nhà nuôi chó, họ đuổi theo, đánh chết con chó nhỏ.

Bồng con trên tay, lòng tôi tràn ngập lo âu. Cả hai vợ chồng đều cùng chung một niềm buồn bã. Im lặng nhìn nhau rồi chợt oà lên khóc. Con tôi đã bị chó dại cắn. Con tôi ngày mai sống chết ra sao...Chúng ta sẽ ra sao...

Những giọt nước mắt làm vơi đôi chút nỗi đau đớn tuyệt vọng. Tôi trở lại bình tĩnh hơn, nghĩ đến việc đi tìm thuốc chữa bịnh cho con. Biết hy vọng thật ít ỏi, tôi vẫn quyết tâm đi tìm.

Ý nghĩ đầu tiên là kiếm “ Vaccin anti-rabique” , thuốc chủng ngừa bịnh dại mà chính tôi lúc còn nhỏ đã có lần chích tại  nhà thương Huế.

Tôi biết Viện Vi Trùng học bệnh viện Huế đã dời ra Nghệ An và đóng bên kia chợ Rạng – Thanh Chương , cách Bạch Ngọc quảng  25 cây số. Theo lý luận chủ quan  tôi nghĩ viện nhất  định sản xuất và nhất định có thuốc chủng ngừa dại ở đó. Một tay bồng con, một tay lái chiếc xe đạp cũ  kỹ, tôi cố gắng đạp thật nhanh. Sau hơn ba giờ nhọc nhằn, qua hai, ba chuyến đò, ẩn tránh hai ba cuộc báo động vì máy bay Pháp dò tìm để không tập các cơ xưởng rải rác ở nông thôn, tôi đã đến Viện Vi Trùng. Gọi là Viện, nhưng thật ra chỉ là một vài căn nhà tranh đơn sơ với năm sáu nhân viên và bác sĩ quản đốc.  Cũng là bác sĩ Nguyễn Đức Kh…, vị quản đốc từ lúc Viện còn ở Huế. Khi tôi đến nơi thì cả bác sĩ Kh...cùng các nhân viên đều có mặt. Chắc không phải là để chữa chạy cho con tôi nhưng vì chẳng có việc gì làm, họ đến để thỏa mãn tính hiếu kỳ. Bác sĩ Kh...cho tôi biết Viện đã không tiếp tục sản xuất gì nữa, rồi nhìn vào những vết thương của con tôi, ông lắc đầu ái ngại : “ Nếu thật là chó dại thì may ra còn được một tuần lễ “.

Tôi không rõ nỗi đau buồn của một người rớt xuống chín tầng địa ngục như thế nào, nhưng lời nói khách quan của bác sĩ Kh...đã đưa tôi đến chỗ hố tuyệt vọng sâu nhất. Thân xác chẳng còn một chút xúc cảm. Tay bồng con, tay dẫn chiếc xe đạp, tôi thờ thẩn ra đi, chẳng biết đi đâu.

Trở lại bến đò, vẻ mặt tiều tụy. Con tôi chưa bao giờ được đi thuyền, cầm một cành cây khua vào mặt nước, cười đùa ngây thơ. Một vài người khách qua đò chú ý, hỏi thăm. Tôi kể lại câu chuyện. Những lời khuyên , những bài thuốc chữa dại, những lời mách...bỗng dưng đến, tới tấp dồn dập. Có người bảo phải đưa cháu về gấp, quá ba ngày mà đi qua sông để  người bị chó dại cắn thấy bóng mình trong sông thì hết thuốc chữa ; có người thì dẫn những phương thuốc ngoại khoa. Thôi thì đủ những phương thuốc kỳ lạ như lấy hột gấc mài với hùng hoàng, lấy nước mưa đọng ở chân cầu bằng gỗ lim sắc với nấm ở chân cầu để uống...Tôi như kẻ chết đuối vớ được cọng rơm, ghi ghi, chép chép hết, nghĩ rằng những phương thức ấy đều thần diệu có thể cứu sống con tôi. Một người trên chuyến đò ngang lại khuyên tôi đi gặp Cụ Nguyễn Thúc Dinh ở Nam Đàn vì cụ có thuốc chữa bịnh dại rất hay và đã giúp chữa lành nhiều người.

Tôi biết Cụ Nguyễn Thúc Dinh, từng làm Phủ doãn ở Thừa Thiên, là Cụ thân sinh Thầy Hào. Những lời chỉ dẫn chính xác như vậy hẳn phải đúng. Ý nghĩ đó làm cho tôi phấn khởi hẳn lên. Tôi cám ơn Trời Phật đã thương xót con tôi, thương xót chúng tôi.

Qua khỏi bến đò, nghĩ đến chuyện có thuốc và việc phải trở về nhà càng sớm càng tốt cho cơn dại không phát ra sớm như lời người ta đã khuyên, tôi lại cắm cúi ra sức đạp xe. Con đường dài còn lại vào khoảng 30,40 cây số. Cố gắng chắc cũng có thể đến nơi trong đêm. Nhưng từ sáng chưa ăn uống, xúc động và cố gắng quá sức , tôi đã rả rời không thể đạp quá 10 cây số. Dừng lại một cái quán bên đường, mua một ít cơm với thức ăn sơ sài, ăn qua bữa rồi xin chủ quán ngủ lại trên cái chõng tre nhỏ ông ta dùng để bán hàng. May ra trời không lạnh lắm. Tôi cởi chiếc áo ngoài, quàng cho con tôi, tôi giữ chặt nó vào lòng để truyền hơi ấm sang. Ngây thơ, chẳng biết đau đớn và cũng chẳng biết bố mẹ đang lo lắng, con tôi đã ngủ một giấc thật ngon trong vòng tay tôi. Riêng tôi, cứ chập chờn, lúc mệt quá thiếp đi nhưng lúc tỉnh thì chỉ mong cho đêm qua mau.

Sáng hôm sau, lúc trời tờ mờ sáng tôi lại lên đường. Ghé lại quán sách Sông Lam ở huyện lỵ Nam Đàn của anh Nguyễn Thúc Cương, em ruột Thầy Hào, bạn hướng đạo với tôi lúc còn ở Huế, để hỏi đường. Anh chẳng biết nói năng gì về thuốc men, chỉ đường thật chu đáo và nói sẽ tin cho gia đình biết để cụ ông ở nhà.

Tôi tiếp tục xuôi con đường số 8, đi qua huyện lỵ  chừng  4,5  cây số, vượt cánh đồng dài bên tay trái thì đến quê Thầy Hào. Nghĩ đến chuyện đến nhà Thầy Hào, sắp sửa được thuốc để chữa bịnh cho con , lòng tỉnh táo lại, nhân dịp nhìn ngắm quê của một vị thầy khả kính. Làng khá trù phú, có nhiều nhà gạch khang trang. Cây cối xanh tươi, có nhiều vườn trái. Đúng như tên gọi, làng có nhiều hồ, hồ này nối tiếp hồ khác. Và cái tên thơ  đầy thơ mộng. Xuân Hồ hay hồ ở độ Xuân sang cũng khá đúng. Mặt hồ phẳng lặng có một màu ngọc bích quyến rủ. Xung quanh hồ trồng nhiều cây có bóng mát. Một vài nơi hoa mưng màu đỏ nhạt, rụng xuống phủ trên mặt hồ, tạo thành một bức tranh thôn dã tươi thắm. Hồ là gia sản của các gia đình giống như ruộng nương vì trong lối sống xưa “ thứ nhất nuôi cá, thứ nhì gá bạc “, Hồ cũng là chỗ chứa nước để dùng cả quanh năm. Ở cách xa sông đến 7, 8  cây số, người ra không thể hàng ngày đi gánh nước, giếng lại khó đào, nên trừ những nhà giàu có bể chứa nước lớn, phải nhờ vào hồ để tắm giặt, rửa ráy và cả ăn uống nữa. Nhưng vì tù đọng nên nước hồ cũng là nguồn gốc gây nhiều bệnh tật, đặc biệt là những bệnh về đường ruột và choẹt mắt hay mí mắt bị lở.

MienQueHoangDa

Tôi đến nhà Thầy Hào vào lúc đã quá trưa. Thầy đi vắng chỉ có cụ thân sinh ở nhà. Khi bước qua khỏi cái sân lát gạch, đến ở thềm thì Cụ cũng vừa trong nhà đi ra. Cụ cất tiếng hỏi : “ – Anh Ng. đó hả ? “. Tôi quá đổi ngạc nhiên khi nghe Cụ gọi tên. Nhưng nghĩ lại, lúc còn ở Nam Đàn, một người em trai thầy Hào đã có học với tôi, vả lại chắc anh Cương đã tin cho  Cụ biết trước nên không còn bỡ ngỡ. Cụ lại vui vẻ đùa bỡn :

- Hôm nay tôi đoán thế nào cũng có người Huế lại thăm. Mấy khi người Huế mình gặp nhau, thôi cứ vào đây nói chuyện đi

Tôi dẫn cháu đi vào nhà, rụt rè ngồi xuống trên chiếc ghế nhỏ chứ không dám ngồi vào chiếc ghế cụ chỉ tay mời. Tôi sợ sệt, giữ gìn ý tứ, một phần vì kính trọng bậc trưởng lão thân sinh của thầy học, mặt khác vì đến để cầu xin thuốc chữa bịnh cho con. Tôi càng e dè bao nhiêu thì  Cụ lại tỏ ra thân mật bấy nhiêu, đối đãi với tôi như một người bạn đồng lứa, quen biết lâu ngày. Cụ cho tôi uống nước chè tươi, ăn kẹo lạc đường đen. Cụ châm biếm nhẹ nhàng những đổi thay trong nếp sống xã hội ,trong thủ tục hành chánh, sự bê bối của bọn cán bộ cộng sản . Những nhận xét sâu của Cụ tôi không nhớ hết , đại để chỉ nhớ ý chính Cụ nói là cộng sản đã lợi dụng danh nghĩa kháng chiến chống Pháp để củng cố quyền lực và bòn rút của cải dân chúng. Chuyển hướng câu chuyện, cụ hỏi thăm tin tức nhiều gia đình và riêng gia đình chúng tôi ở Huế, rồi lại hỏi đến hoàn cảnh chúng tôi. Tôi thì chỉ nghĩ đến chuyện xin thuốc cho con, với lại xa Huế cũng đã lâu, chẳng có tin tức gì rõ rệt, chỉ lễ phép gọn gàng trả lời những gì tôi biết được. Hình như thấy rõ tâm trạng của tôi, Cụ nhìn vào con tôi và hỏi : “ Có phải anh Ng. đến thăm tôi để xin thuốc chữa bệnh dại cho cháu không ? “. Tôi mừng rỡ thú thật là cũng có phần muốn đến thăm Cụ và Thầy Hào nhưng mục đích chính yếu đúng là đến xin thuốc. Tôi không che dấu được vui mừng, phấn khởi như muốn đưa  hai  tay ra để đón nhận phương thuốc thần diệu và quỳ lạy để cám ơn đức tái sinh của Cụ. Nhưng chưa kịp thực hành ý nghĩ của mình thì nghe Cụ nói : “ – Nói thật với anh, tôi chẳng có thuốc men gì cả  “.

Lại một lần nữa tôi thất vọng và không che dấu được nỗi ủ dột, vẻ buồn hiện ra trên nét mặt. Aí ngại Cụ tiếp : “ – Tôi không có thuốc nhưng nếu anh muốn tôi sẽ đi xin thuốc giúp anh “. Nói xong , Cụ khoác vội chiếc áo ngắn tứ thân, với lấy chiếc ô cầm tay, tất tả đi ra. Tôi ngồi lại chờ đợi, lòng nôn nao hồi hộp. Chừng nửa giờ sau Cụ trở lại, tay phải cầm cái ô làm gậy, tay trái cầm gói thuốc mà tôi còn nhớ rất rõ, gói trong một trang giấy học trò cũ kỹ. Tôi đi ra sân đón Cụ vào nhà. Trao gói thuốc cho tôi Cụ bình tĩnh nói, một thứ bình tĩnh như che dấu một điều gì : “ – Thuốc đây, anh đem về cho cháu uống. Tôi nghe nói thuốc làm bằng thổ huỳnh ( thứ đất màu vàng dùng làm màu quấy với vôi trắng để sơn tường hoặc dùng vào việc tẩm liệm người chết ) pha với xương người chết vì sét đánh nghiền nhỏ. Tôi cũng có thằng cháu bị chó dại cắn, cũng uống thuốc này. Hay lắm, nhưng nó đã chết “.

Tay đỡ lấy gói thuốc, lòng tôi hoang mang vô cùng. Bấy giờ tôi không hiểu lời nói sau cùng của Cụ. Nhưng về sau nghĩ lại mới cảm thấy tấm lòng cảm động thương yêu trong lối nói châm biếm hài hước của một nhà nho. Có lẽ Cụ đã xúc động nghĩ đến người cháu xấu số và cũng nghĩ rằng nếu chó dại cắn thì không có thuốc nào cứu được, nhưng kín đáo nhắn nhủ tôi cứ thử xem, may ra có hiệu quả.

Từ giả Cụ Thượng Dinh, đưa cháu về nhà, chúng tôi bắt đầu sống những ngày chờ đợi phập phồng kinh hãi. Những người bị tùng xẻo, nghe một tiếng trống bị cắt mất một miếng thịt, chắc đau khổ lắm. Vợ chồng chúng tôi cũng ở trong hoàn cảnh đó. Mỗi ngày một qua lại nhìn vào con để xem trong ánh mắt, trong cử chỉ con có gì thay đổi không. Ban đêm nghe tiếng con ậm ừ cứ tưởng chừng như con đã lên cơn dại. Hồn phách thất lạc, rồi thức trắng đêm. Nhưng nếu mối lo âu gia tăng mỗi ngày thì mỗi ngày qua đem lại cho chúng tôi một chút hy vọng. Ba ngày trôi qua, con tôi vẫn uống nước bình thường, không có chút gì sợ hãi khi nhìn vào nước như người ta nói. Một tuần lễ của bác sĩ Kh. tiên đoán cũng đã hết. Rồi đến một tháng, rồi 49 ngày, rồi ba tháng  10 ngày, những mức thời gian đầy huyền bí trong tín ngưỡng cũng qua đi. Dấu vết cắn của con chó đã khô trở thành những vết thẹo đỏ, nổi phồng lên trên làn da. Nhưng con tôi vẫn cười đùa ngây thơ và vẫn khôn lớn bình thường như nhứng đứa trẻ bình thường khác.

Con chó cắn con tôi hẳn không phải chó dại và con tôi đã không chết vì bệnh dại. Thế nhưng đúng 26  năm sau, năm 1976 , sau lúc tốt nghiệp bác sĩ ở trường Y Sài Gòn chẳng bao lâu thì con tôi đã chết trong một trại tù gọi là “ học tập cải tạo “ ở Long Khánh, quản trị bởi một lũ người ngu dốt và man dại. Năm 1984 lúc cải táng con tôi từ đồi Long Khánh, tôi muốn sờ lại những vết thẹo đỏ trên thân con nhưng thịt da đã nát tan, chỉ còn vết thương ở đầu, nhận lãnh từ trại học tập là còn thấy rõ và vẫn mãi mãi ám ảnh tôi.

Tôi đã nhớ đến Thầy Hào, nhớ đến Cụ thân sinh của  Thầy, nhớ đến gia đình Thầy không phải chỉ vì là một người học trò cũ của  Thầy mà vì hoàn cảnh trớ trêu đã đưa tôi đến quê hương  Thầy. Lòng thương nhớ con tự nhiên đã được gắn liền với cuộc gặp gỡ không bao giờ quên ở làng Xuân Hồ năm ấy.

San Diego – Mùa Thu 95

Hoàng Nguyễn

User Rating: 5 / 5

Star ActiveStar ActiveStar ActiveStar ActiveStar Active

 MoVeTruongCu2R

Có tiếng vọng lòng ta từ thuở ấy

Dĩ vãng về tựa thoáng băng cay

Có những đêm dài thao thức nhớ

Bóng cũ đâu đây thấp thoáng đầy

Dấu ân tình dịu ngọt trái tim ta

Ôi nhung nhớ ! ôi hồn thơm băng phiến

 Tuổi thơ vàng bỡ ngỡ áng mây xa

Phan Châu Trinh ! Chim hót rộn sân trường

Dưới hàng me rực rỡ nắng yêu thương

Đường em đi phượng đầy hoa thắm đỏ

Ngọn gió hiền ru giấc mộng tơ vương

Phan Châu Trinh, con đường xưa thân ái

Nắng tơ vàng, em thêu áo lụa màu

Trời trong xanh  êm đềm qua kẽ lá

Mây vẫn hồng lưu luyến phút bên nhau

Phan Châu Trinh, reo thầm muôn nốt nhạc

Âm thanh tình xao xuyến bật lời ca

Em ngúng nguẩy, nguýt lườm nheo mắt háy

Bâng khuâng nào khe khẽ trút hồn ta

Phan Châu Trinh – em áo lụa kiêu sa

Trong vòng tay ấp ủ khối tình ngà

Em khép nép bài thơ nghiêng nón lá

Sóng mắt tình ngơ ngẩn giấc mơ xa

Sân trường đó ngày xưa em cắp sách

Tiếng em cười rào rạt nắng thủy tinh

Em lúng liếng, hoa cài đuôi tóc bím

Len lén nhìn, ai cứ mãi làm thinh

Ôi trường xưa ! Tiếng tên em thầm lắng

Gọi ta về như vệt nắng chiều hoang

Ôi hàng cây ! bên sân trường thanh vắng

Ôi xa lạ ! Con phố rộng thênh thang

Ôi hồn ta đó ! hồn ta lắng đọng

Chiếc lá sầu rơi nhẹ lối bâng khuâng

Lòng ta bỗng xôn xao hàng sóng nhỏ

Trũng hồn sâu theo nỗi nhớ triều dâng

Ta muốn nghe từng hơi thở trìu mến

Muốn nâng niu từng ngọn cỏ sân trường

Xin thăm hỏi bảng vôi và ghế trống

Để nghe lòng vang nhẹ tiếng thân thương

Ta đứng đó chôn nỗi buồn câm nín

Giọt mưa chiều ướt sũng  thấm hồn đau

Trời xanh xao u trầm khung ký ức

Phan Châu Trinh ! Giờ nầy em ở đâu ?

Sân trường đó xin hẹn ngày trở lại

Chút quỳnh hương xin giữ hộ trong tay

Trên băng ghế , bài thơ còn dang dở

Đợi ta về , vuốt nhẹ tóc em bay ...

 

Vương Ngọc Long

( “ ĐS Kỷ niệm 55 thành lập Trung Học Phan Châu Trinh ,Đà Nẵng. Hải ngoại  2007 ”  )

Star InactiveStar InactiveStar InactiveStar InactiveStar Inactive

 LonelyBirdR

 

Rồi anh cũng như loài chim bé nhỏ

Thèm mặt trời theo ánh nắng bay đi

Và anh cũng như loài chim nhỏ đó

Đến muôn năm không tìm được lối về

 

Rồi tuổi trẻ theo tháng ngày đi mất

Và tình yêu như nước đổ lòng sông

Loài chim nhỏ bỗng dưng buồn ngơ ngác

Anh cô đơn với nước mắt lưng tròng

 

Thành phố ấy vẫn giòng sông nước biếc

Cỏ mùa xuân đã xóa dấu chân chim

Con đường xưa những vòng tay thắm thiết

Em quên đi như cây lá vô tình

 

Chim mỏi cánh đành phó thân cho gió

Gió đưa chim về biển nhớ rừng buồn

Anh đứng lại nhìn sương mù phố cũ

Tuổi thanh xuân chưa chạm bóng thiên đường.

 

Trần Hoan Trinh

( “ Bỏ Trường Mà Đi “, 2002 )